Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012

GIỮ VỮNG VÀ PHÁT HUY TINH THẦN “ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO, TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG” CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY


Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh và tôn vinh sự lãnh đạo tài tình, vĩ đại của Đảng ta. Sự vĩ đại đó được tạo nên bởi nhiều yếu tố nội tại luôn gắn kết và liên quan chặt chẽ với nhau thuộc về tinh thần, bản lĩnh của Đảng, trong đó có tinh thần “độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường”; tinh thần ấy đã trở thành bài học kinh nghiệm và là một trong những giá trị truyền thống vẻ vang của Đảng. Càng nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ thì Đảng càng phát huy tốt tính sáng tạo, càng thể hiện rõ bản lĩnh tự lực, tự cường; ngược lại, một khi nêu cao bản lĩnh tự lực, tự cường thì Đảng càng phát huy tốt tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy: khi nào Đảng phát huy tốt tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường thì khi đó uy tín của Đảng được nâng cao, sự nghiệp cách mạng càng có điều kiện thuận lợi để đi đến thành công; ngược lại, khi nào Đảng không phát huy tốt tinh thần ấy thì uy tín của Đảng xuống thấp, sự nghiệp cách mạng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Bởi, “cách mạng là khoa học và nghệ thuật. Khoa học đòi hỏi cách mạng phải tôn trọng quy luật. Nghệ thuật đòi hỏi cách mạng phải sáng tạo. Lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi chứng tỏ Đảng ta không những tôn trọng quy luật khách quan, tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn rất sáng tạo - sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, sáng tạo trong hoạch định đường lối cách mạng, sáng tạo trong phương pháp cách mạng”[1].
Từ lúc mới ra đời (ngày 3 tháng 2 năm 1930), với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Đảng ta đã xác định được Chính cương, Sách lược vắn tắt - cương lĩnh đầu tiên của Đảng - một cách đúng đắn. Cương lĩnh chỉ rõ con đường cách mạng Việt Nam: "Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, để đi tới xã hội Cộng sản"[2]. Cương lĩnh còn chỉ rõ nhiệm vụ, mục tiêu, lực lượng, phương pháp cách mạng, công tác xây dựng Đảng... Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc; giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những nội dung cơ bản đó đã giải đáp đúng và trúng những vấn đề quan trọng, bức thiết do lịch sử đặt ra, phản ánh đúng thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Đường lối đúng cho phép huy động mọi lực lượng yêu nước trong dân tộc; tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế; tạo cơ sở vững chắc để sử dụng mọi phương pháp, hình thức đấu tranh, phát huy sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng tiến lên. Cũng nhờ đường lối đúng, ngay từ đầu, Đảng ta đã đánh bại mọi xu hướng dân tộc cải lương tư sản và chủ nghĩa dân tộc phiêu lưu tiểu tư sản. Do đó, đường lối vừa được vạch ra đã có sự hấp dẫn, lôi kéo hàng triệu quần chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng. Trước sự xuất hiện của tình thế cách mạng khi quân Nhật đầu hàng đồng minh, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng đã phát động toàn dân đứng lên, từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào đúng thời điểm chín muồi nhất. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được coi là một trong những điển hình sáng tạo về khoa học và nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng ta. Thực tế đã chứng minh, không một đảng nào, một nước nào ở khu vực làm được như Đảng ta trong hoàn cảnh lịch sử đó, đồng thời bác bỏ những quan điểm sai trái cho rằng Việt Nam giành chính quyền trong điều kiện có “khoảng trống quyền lực” hòng phủ định tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền dân chủ nhân dân vừa được thành lập, cách mạng nước ta gặp nhiều khó khăn, thử thách, tình hình đất nước như “ngàn cân treo trên sợi tóc”. Nhưng, với bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt chèo lái, đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh tới bờ bến vinh quang. Những chủ trương của Đảng vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược ở thời kỳ đó đã lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là giữ vững chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt để đối phó với chiến tranh xâm lược. Trong hai cuộc kháng chiến, bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta lại tỏa sáng. Trước kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp bội, Đảng ta vẫn chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử, đánh địch và thắng địch bằng sức mạnh tổng hợp, đồng thời đảm bảo cho miền Bắc có hòa bình tương đối để xây dựng chủ nghĩa xã hội, hậu phương lớn của cách mạng cả nước. Chúng ta quán triệt và thực hành tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng biết kéo địch xuống thang, đánh thắng từng bước để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975.
Trong hai cuộc kháng chiến, nhân dân ta được sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bầu bạn quốc tế. Đảng và nhân dân ta coi đó là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhưng thời kỳ đó cũng xẩy ra sự bất đồng giữa các nước anh em, một số nước có những toan tính đen tối đối với cách mạng Việt Nam, gây cho cách mạng nước ta nhiều khó khăn, phức tạp, cản trở lớn. Với bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, đứng vững trên lập trường mác-xít lê-nin-nít, kết hợp sự khôn ngoan về chính trị với sự dày dạn trong kinh nghiệm, Đảng ta đã sáng suốt, có tầm nhìn xa, trông rộng, khả năng ứng phó nhạy bén, kịp thời, khắc phục có hiệu quả mọi chướng ngại để giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam, góp phần củng cố sự đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế. Nếu không độc lập, tự chủ và sáng tạo thì chúng ta không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay là thời kỳ tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng được phát triển lên một tầm cao mới. Xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam, Đảng ta không sao chép, rập khuôn bất cứ mô hình có sẵn nào trên thế giới. Đường lối đổi mới của Đảng được hình thành do đòi hỏi bức thiết của quần chúng ở cơ sở, song luôn có sự lãnh đạo chặt chẽ, sáng tạo của Đảng. Từ khó khăn trong sản xuất và đời sống, quần chúng nhân dân đã sáng tạo ra nhiều cách nghĩ, cách làm hay, tuy cũng chứa đựng cả khả năng chệch hướng. Do kịp thời nắm bắt thực tiễn, tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã từng bước khái quát thành quan điểm, đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đó là sản phẩm của sự hoà quyện giữa ý Đảng với lòng dân, tuân theo đúng quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn và lợi ích, nguyện vọng, khả năng của quần chúng nhân dân.
Quá trình thực hiện đường lối đổi mới là quá trình Đảng ta, nhân dân ta sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải trong xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta trong thời kỳ bao cấp, đồng thời qua đó từng bước hình thành, phát triển tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đảng ta, nhân dân ta đã phải trải qua nhiều khó khăn thử thách, có những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Trong những thời khắc lịch sử ấy, với bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng kịp thời đề xuất những nguyên tắc đổi mới, kết hợp chặt chẽ lập trường kiên định với tính sáng tạo, mềm dẻo, thông thoáng trong sách lược, đảm bảo đường lối đổi mới được thực hiện và phát triển đúng hướng, giành nhiều thành tựu, rất quan trọng. Cũng từ những thành tựu ấy, Đảng ta củng cố thêm niềm tin vững chắc rằng: nếu biết phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chúng ta có thể vượt qua mọi thử thách, dù là những thử thách nghiêm trọng nhất.
Vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là: nhờ phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường mà Đảng ta đã mạnh dạn khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới thành công. Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, cũng nhờ phát huy tốt tinh thần ấy, nên đất nước ta đã có bước phát triển nhanh và bền vững, giữ được độc lập dân tộc và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong quá trình hội nhập, không hề bị lệ thuộc hay bị ràng buộc bởi bất cứ quốc gia, dân tộc nào. Điều này đã được Đảng ta khẳng định: “Công cuộc đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào”[3].
Hiện nay, công cuộc đổi mới của đất nư­ớc ta đang trên đà tiến triển và tiếp tục thu được nhiều thành tựu mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tình hình kinh tế, chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng-an ninh được giữ vững, đời sống của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, trước tác động mạnh mẽ, cả tích cực lẫn tiêu cực của tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã khiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN phải luôn trong tình thế mà thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và thách thức ch­ưa từng có tiền lệ trong lịch sử cùng tồn tại đan xen lẫn nhau.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước đang đẩy mạnh việc thực hiện chiến lư­ợc “Diễn biến hoà bình” kết hợp với gây bạo loạn lật đổ hòng chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất là trước những sự kiện trọng đại của đất nước như đại hội Đảng sắp tới, chúng bôi xấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo, kích động các phần tử tiêu cực, lôi kéo đồng bào trong và ngoài nước tham gia thực hiện các mục đích chính trị do chúng đặt ra... Do đó, để tiếp tục đứng vững và phát triển, cách mạng Việt Nam không thể tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, Đảng ta không thể không phát huy những bài học kinh nghiệm truyền thống, trong đó có bài học về độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường.
Là nhân tố quan trọng bậc nhất và có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, để phát huy tốt tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, Đảng ta cần phải: 
Một là, luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xác định đường lối, phương pháp đổi mới đúng đắn.
Hai là, tích cực nghiên cứu, tham khảo, học tập kinh nghiệm của nước ngoài và tổng kết thực tiễn trong nuớc, phát triển lý luận để làm cơ sở xác định đúng đường lối và phương pháp đổi mới.
Ba là, kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, nắm vững các nguyên tắc để hiện thực hoá chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Bốn là, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đảm bảo thành công cho sự nghiệp đổi mới.
Năm là, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Để tiếp tục phát huy tốt hơn nữa tinh thần đó trong thời gian tới, chúng ta cần phải có các điều kiện cơ bản sau đây:
Một là, Đảng phải luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định đường lối chiến lược đúng đắn, sách lược phù hợp với tình hình thực tiến trong nước và thế giới, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đảm bảo cho đất nước tiếp tục phát triển nhanh và bền vững.
Toàn bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới luôn gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động cách mạng của Đảng ta. Là một đảng cầm quyền chân chính, Đảng chịu trách nhiệm về tất cả các lĩnh vực của đất nước và dân tộc. Những thắng lợi vĩ đại của công cuộc đổi mới ở nước ta trong thời gian qua là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhưng nhân tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định nhất là sự lãnh đạo đứng đắn và sáng suốt của Đảng.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, phát huy tốt tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, nhất định Đảng ta sẽ tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm bắt và tổng kết được những hoạt động thực tiễn sáng tạo của quần chúng, kịp thời đề ra chủ trương, đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp hơn nữa với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam, khơi dậy và phát huy tiềm lực to lớn của nhân dân, tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới trong thời gian tới.   
Hai là, phải quan tâm xây dựng để đất nước luôn có tiềm lực mạnh toàn diện, cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Trong tiến trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, đòi hỏi chúng ta phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh. Đây là một trong những yêu cầu khách quan đối với cách mạng Việt Nam trong quá trình mở cửa, hội nhập hiện nay. Rõ ràng là, một khi xây dựng được tiềm lực của đất nước mạnh một cách toàn diện thì chúng ta mới có ưu thế để thực hiện chủ trương hội nhập, không bị lệ thuộc hay bị ràng buộc bởi bất cứ quốc gia nào. Mục tiêu hội nhập đạt được sẽ cao hơn, đất nước sẽ có điều kiện phát triển thuận lợi hơn. Chỉ trên cơ sở phát huy tốt tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường thì Đảng mới lãnh đạo đất nước đạt được mục tiêu đó.
Ba là, thường xuyên giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường với chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong điều kiện hiện nay.
Giữ vững độc lập, tự chủ là bài học rất cơ bản, nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, thể hiện sự kiên định, vững vàng trên những vấn đề nguyên tắc, cũng như sự nhạy bén, sắc sảo của Đảng ta trong chỉ đạo chiến lược, linh hoạt, mền dẻo trên những vấn đề sách lược; nổi bật là việc giữ vững độc lập tự chủ trong chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Nhờ nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường mà Đảng ta đã tạo nên thế và lực ngày càng cao cho đất nước trong quan hệ đối ngoại, chúng ta đã tiếp cận được nhiều hướng khác nhau và tranh thủ được sự giúp đỡ của quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau, từ các nước đang kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư bản phát triển và cả các nước cánh tả đang có xu hướng lựa chọn xây dựng đất nước theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Thời gian tới, trong quan hệ quốc tế chắc chắn sẽ nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp khó lường, song với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường của Đảng được phát huy, nhất định nước ta sẽ phát huy tối đa lợi thế của mình, giữ được độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho thành công của sự nghiệp đổi mới.
Tóm lại, để tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước thành công, thực hiện trọ vẹn sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng ta phải luôn phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường; quán triệt và thực hiện đúng những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc nêu trên. Một khi nắm chắc và vận dụng sáng tạo những vấn đề có tính nguyên tắc cơ bản đó thì chúng ta mới phát huy nội lực, giành được thế chủ động trong quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ ngoại lực, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn hiện nay./.


[1] TS. Đinh Xuân Lý (chủ biên), Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.84.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tr. 2.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội. 2001, tr.81.

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY


Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, nhất là những kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng nước ta, Đảng ta đã đi đến một quan niệm về Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đảng ta không tư duy chủ nghĩa xã hội theo mô hình cứng nhắc, được thiết kế sẵn hoặc sao chép. Đảng ta chỉ xác định những giá trị tạo thành bản chất của chủ nghĩa xã hội, có tính ưu việt vượt xa xã hội tư bản chủ nghĩa và xác định những mục tiêu cần phấn đấu để xây dựng xã hội ở nước ta. Đồng thời, Đảng ta cũng nhận thấy đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Dựa trên sự phân tích khoa học những thiếu sót trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của các Đảng anh em và nhất là của bản thân mình, Đảng ta đã xác định những phương hướng cơ bản của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ nhằm tới mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo các phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Dưới ánh sáng của quan niệm và những phương hướng đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước: nền kinh tế tăng trưởng khá, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao; an ninh quốc phòng được giữ vững, chính trị của đất nước được ổn định.
Những thành tựu mà công cuộc đổi mới trong hơn hai mươi năm qua giành được đã chứng minh hùng hồn quan niệm về chủ nghĩa xã hội và những phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta mà Đảng ta đã đề ra là đúng đắn và sáng tạo. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh một số vấn đề sau:
Một là, chúng ta đang thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền sản xuất xã hội phục vụ đời sống của nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước
Trong công cuộc đổi mới chúng ta đã khắc phục thiếu sót trong nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, vai trò của mỗi thành phần là khác nhau, thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, doanh nghiệp nhà nước chưa cần nhiều nhưng phải là những doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và trên những địa bàn quan trọng. Trong quá trình xây dựng, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất phải từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đó là đòi hỏi khách quan, vì chủ nghĩa xã hội khi được xây dựng xong thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải chiếm ưu thế. Nhưng Đảng ta đã không nóng vội, chủ quan, duy ý chí, mà phải dựa trên sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, Nhà nước phải có chính sách và biện pháp làm cho doanh nghiệp quốc doanh thực sự là đại diện cho lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tiên tiến trong nền kinh tế quốc dân, đi đầu trong ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, về năng lực cạnh tranh, về khoa học quản lý, về thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và chăm lo đời sống của công nhân. Đối với kinh tế tập thể, nhất là hợp tác xã, phải làm cho thành phần kinh tế này hoạt động ngày càng có hiệu quả, khắc phục những yếu kém về cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình độ khoa học, về năng lực quản lý để làm cho chất lượng của thành phần kinh tế này ngày càng nâng lên.
Chúng ta đề ra các thành phần kinh tế đều bình đẳng và được khuyến khích phát triển để mang lại ích nước, lợi nhà, nhưng điều đó chỉ có ý nghĩa là các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, thành phần nào, cơ sở nào hoạt động trái với pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật chứ không có nghĩa là từ bỏ sự quan tâm đối với các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để tạo ra nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ, tạo ra lực lượng vật chất bảo đảm cho Nhà nước đấu tranh để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần gắn với cơ chế thị trường để phát triển được cần phải xây dựng một hệ thống thị trường đồng bộ, bao gồm: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ… Các yếu tố của hệ thống trên tuy có được Nhà nước xây dựng nhưng còn sơ khai. Nền kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực và tiêu cực. Sự cạnh tranh đi đến phân hoá giàu nghèo đã thúc đẩy con người chạy theo lợi ích trước mắt, cục bộ, ít nghĩ đến lợi ích lâu dài, toàn cục; hoặc chạy theo lợi ích cá nhân, thờ ơ với lợi ích của cộng đồng, của xã hội như bảo vệ tài nguyên, môi trường nên dẫn đến những hậu quả nặng nề cho đất nước.
Nền kinh tế thị trường của ta là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, trong đó sự phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân chủ yếu là do thị trường quyết định, nhưng Nhà nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong điều tiết vĩ mô bảo đảm giữ vững sự cân đối và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước phải thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách và luật pháp mà quản lý và luôn luôn quán triệt tính giai cấp của quản lý để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ cho lợi ích của quần chúng nhân dân. Thông qua các công cụ trên đây và thực lực kinh tế của mình (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể) để Nhà nước điều tiết vĩ mô. Đồng thời, ngăn chặn và xử lý những lệch lạc nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, giữ gìn và sử dụng tài nguyên quốc gia nhằm bảo tồn và phát triển nó. Chỉ có như vậy mới có thể duy trì và phát huy được các ưu điểm và hạn chế, khắc phục những nhược điểm, khuyết điểm vốn có của nền kinh tế thị trường, bảo đảm cho nền kinh tế đó phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế, các yêu cầu đã chưa được đáp ứng và chất lượng quản lý còn rất nhiều hạn chế. Do vậy, cần tập trung xây dựng hệ thống công cụ này để công tác quản lý phát huy được mặt tích cực, hạn chế được mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ba là, xu thế của thời đại là hoà bình, hợp tác và phát triển, không một nước nào đứng ngoài xu thế đó mà có thể phát triển nhanh và bền vững. Vì thế, ta đã chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Trước thời cơ và thách thức, chúng ta cần có bản lĩnh và sáng tạo để hội nhập nhưng không hoà nhập; hợp tác nhưng không từ bỏ đấu tranh, bởi có đấu tranh mới thực hiện được mục đích của hợp tác; đặc biệt là đi đôi với hội nhập, ta phải xây dựng một nền kinh tế độc lập và tự chủ.
Nền kinh tế độc lập tự chủ đòi hỏi chúng ta phải biết tận dụng những thuận lợi của thời đại để thu hút vốn, kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường. Nhưng, chúng ta không chấp nhận điều kiện của bất kỳ ai, bất cứ một viện trợ nào kèm theo điều kiện có hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Để chủ động hội nhập khu vực, quốc tế và xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ thì trước hết phải nghiên cứu nắm vững thực tiễn của nền kinh tế đất nước và xác định những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Cần xây dựng một chiến lược kinh tế xã hội, chiến lược đầu tư sản xuất, kinh doanh và lộ trình hội nhập khu vực, thế giới trên cơ sở khoa học và sát với thực tiễn Việt Nam.
Bốn là, sự phát triển của khoa học và công nghệ như vũ bão trong thời đại ngày nay đã đưa lại kinh tế tri thức, trong đó lao động trí óc thay dần cho lao động cơ bắp và khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang đòi hỏi một sự phát triển về khoa học công nghệ của nước ta. Xây dựng một chiến lược về khoa học và công nghệ, trong đó hết sức coi trọng nghiên cứu cơ bản và phát triển một số khoa học mũi nhọn như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ chế tạo và tự động hoá đang là một đòi hỏi khách quan và cần tập trung đầu tư triển khai một cách tích cực. Việc hội nhập quốc tế để tranh thủ kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến đòi hỏi chúng ta phải nhạy bén sáng suốt, có sự am hiểu chuyên môn nhằm khắc phục nhập khẩu kỹ thuật lạc hậu của các nước phát triển; giúp đất nước vừa tiến tuần tự vững chắc, vừa có những bước nhảy vọt về khoa học và công nghệ.
Để nâng cao vai trò khoa học và công nghệ trong phát triển lực lượng sản xuất, giáo dục và đào tạo của đất nước cần có những chuyển biến mạnh mẽ để phát huy tốt nhất nhân tố con người, làm cho con người trở thành yếu tố sống động nhất trong lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất cao, chất lượng tốt cho nền kinh tế, làm nòng cốt cho sự phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực tế đó làm cho công tác giáo dục, đào tạo trở thành lĩnh vực quan trọng nhất của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Công tác khoa học và công nghệ cũng như công tác giáo dục và đào tạo phải gắn liền với xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất nước.
Năm là, cần nhận thức đúng và khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, sự "thương mại hoá" các lĩnh vực của đời sống xã hội và tình trạng con người lấy đồng tiền làm lẽ sống.
Trong quần chúng nhân dân, các hiện tượng làm ăn phi pháp, dối trá, lừa đảo, đầu cơ tích trữ, gian lận thương mại… đang diễn ra hàng ngày. Trong cán bộ, đảng viên có chức, có quyền thì tham nhũng đang là một tệ nạn lớn, đã được Đảng coi là quốc nạn, là một trong nguy cơ của đất nước. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết và việc làm để chống lại các tệ nạn trên, nhưng đến nay hiệu quả cũng còn hạn chế. Việc tìm ra nguyên nhân của sự hạn chế này đang là một đòi hỏi cấp bách. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng phải chăng có mấy vấn đề chủ yếu sau: Thứ nhất, chưa thấy hết nguồn gốc của những tệ nạn trên để có phương hướng công tác tư tưởng đúng và làm trong sạch bộ máy Đảng, chính quyền các cấp. Thứ hai, chưa thấy hết thực trạng của những tiêu cực để khắc phục, đặc biệt là kết hợp tốt công tác giáo dục chính trị, đạo đức với hoạt động của luật pháp.
Sáu là, chúng ta đấu tranh cho một nền hoà bình bền vững để xây dựng đất nước, nhưng không thể mất cảnh giác với âm mưu của kẻ thù đối với nước ta.
Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ là một cuộc đấu tranh toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vô cùng phức tạp. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù một cách liên tục, kiên quyết, không khoan nhượng, nhưng lại phải khôn khéo trong môi trường hợp tác. Hơn nữa, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ có chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, mà còn phải sẵn sàng đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược. Chiến lược "ra tay trước đánh đòn phủ đầu", chủ nghĩa đơn phương và thái độ lộng hành của chủ nghĩa đế quốc đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác. Trước chiến lược mới của kẻ thù, không thể coi nhẹ sự nghiệp bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm cả trên mặt đất, trên biển, trên không, nhất là trong tình huống địch tiến hành chiến tranh hiện đại sử dụng công nghệ cao. Với điều kiện của đất nước ta hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra thì phải lấy chiến tranh nhân dân nhưng là chiến tranh nhân dân hiện đại để đánh thắng kẻ thù. Vì vậy, không thể dừng lại ở những kinh nghiệm chiến tranh đã có, mà phải tiếp tục nghiên cứu phát triển lên một tầm cao mới. Chiến lược quốc phòng cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và triển khai một cách tích cực để có thể đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược hiện đại nếu xảy ra.
Trước thời cơ và thách thức lớn, chúng ta tin rằng: Đảng ta sẽ biết phát huy truyền thống đạo đức và trí tuệ trong lãnh đạo cách mạng trước đây vào hoàn cảnh lịch sử mới, ra sức tiến hành công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng học tập và rèn luyện, chuẩn bị tốt hơn nữa hành trang về đạo đức và trí tuệ cho sự nghiệp đầy khó khăn và phức tạp trong giai đoạn mới. Hiện nay, nếu toàn Đảng, toàn dân, toàn dân tộc đồng lòng nhất trí, toàn tâm, toàn ý khắc phục những tệ nạn tiêu cực trong xã hội, trong Đảng, Nhà nước,  ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, khắc phục những bất cập về đạo đức, về trí tuệ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì sự nghiệp nhất định sẽ thành công.