Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

CỦNG CỐ VÀ MỞ RỘNG DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ-NHÂN TỐ QUAN TRỌNG TRONG XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường...” , nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Để thực hiện được chủ trương trên, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó thực hiện tốt việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở có một vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo điều kiện thuận lợi và động lực to lớn để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

  Chi bộ Đài PT-TH Ninh Bình duy trì nền nếp sinh hoạt vào ngày 3 hàng tháng
Cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội một cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với mọi người, mọi giới và mọi lứa tuổi. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và sự hiểu biết cùng khả năng thực hiện của mỗi người. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hai hình thức: Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, trong đó dân chủ trực tiếp có ý nghĩa thiết thực nhất. Phương châm thực hiện dân chủ ở cơ sở là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đây cũng chính là quy trình thực thi dân chủ từ nhận thức đến hành động, qua kiểm tra đánh giá lại hành động, rồi tiếp tục nhận thức và hành động với hiệu quả cao hơn. Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải dựa trên những quy định của Hiến pháp, pháp luật cũng như điều lệ của các tổ chức chính trị-xã hội, bảo đảm đúng đường lối của Đảng, tăng cường khối đoàn kết cộng đồng, phát huy tính tích cực, sáng tạo của mọi thành viên đóng góp vào sự nghiệp chung. Quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ luôn là nhân tố đóng vai trò chính, lãnh đạo toàn bộ các hoạt động của quá trình đó.
Trong những năm qua, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đã có những chuyển biến tích cực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh trật tự ở cơ sở, với việc xuất hiện ngày càng nhiều điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi, số hộ khá, giàu ngày càng tăng. Các tệ nạn xã hội giảm dần, nhiều vụ, việc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân được giải quyết ổn thỏa. Cùng với đó là đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên. Việc các cấp ủy, chính quyền tổ chức đối thoại trực tiếp với dân, lấy ý kiến nhân dân tham gia về công tác đảng đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp ủy và chất lượng đảng viên, từng bước xây dựng tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên... Hiện nay, nhiều vấn đề nhân dân bức xúc đều được chính quyền địa phương tiếp nhận, với gần 95 % đơn, thư thuộc thẩm quyền được giải quyết. Kết quả cuộc khảo sát lấy ý kiến về việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, có hơn 83% cán bộ cấp xã và gần 70% nhân dân đánh giá việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở thực sự có hiệu quả .
Tuy nhiên, cùng với các mặt tích cực đạt được nêu trên, trong quá trình củng cố và mở rộng dân chủ ở nước ta gặp phải một số khó khăn, trở ngại nhất định sau đây:
Thứ nhất, dân số nước ta tập trung chủ yếu ở nông thôn, cho nên mang nặng tính chất quần cư làng xã và sự điều chỉnh bằng phong tục tập quán, ngoài những mặt tích cực ra không phải bao giờ cũng tương hợp với việc xây dựng một nền dân chủ kiểu mới chủ yếu dựa trên các quy định của pháp luật. Xã hội ta chưa đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện dân chủ trực tiếp một cách rộng rãi vì trình độ dân trí, năng lực của cán bộ, phương tiện, vật chất, thông tin còn thấp kém.
Thứ hai, cở sở kinh tế-xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu không đồng đều và cân đối giữa các vùng, ngành. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay sự phân hóa xã hội đã ở một khoảng cách lớn. Hệ thống các văn bản pháp luật về lĩnh vực dân chủ và xã hội công dân còn chưa được hoàn chỉnh, đồng bộ, quản lý các cấp chính quyền cơ sở trên các lĩnh vực còn yếu và bất cập.
Thứ ba, mặt bằng dân trí nói chung, dân trí pháp lý nói riêng còn thấp, tình trạng vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân ở các cơ sở còn phổ biến. Điều này gây khó khăn cho quá trình tiếp thu và thực hiện nội dung, yêu cầu của dân chủ, làm hạn chế quá trình dân chủ hóa cơ sở. Thực tế cho thấy hiện nay quan niệm “Phép vua thua lệ làng” vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của người dân nông thôn do sự hiểu biết hạn chế của họ. Vì vậy, chính sách của Đảng và Nhà nước cho dù có hoàn thiện đến đâu thì đến khi triển khai thực hiện đến người dân cũng vẫn gặp khó khăn, đây cũng là một trong những hạn chế ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở.
Thứ tư, cách tổ chức, triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn còn đơn điệu, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm và hình thành một thái độ, niềm tin cho mọi người trong xã hội. Cùng với đó là trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế, phong cách lãnh đạo, quản lý chưa được đổi mới, một bộ phận cán bộ chưa thực sự gần gũi nhân dân, ngại kiểm điểm trước dân, chưa đi sâu, đi sát, chưa tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra công việc hàng ngày ở cấp xã.
Chính vì thế, trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở vẫn bộc lộ những hạn chế như tính dân chủ hóa, công khai hóa trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện quy chế dân chủ. Nhiều địa phương và người dân còn xem nhẹ nghĩa vụ phải thực hiện các nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; chưa có những chế tài cụ thể đối với những hành vi cản trở hoặc không thực hiện các nội dung của quy chế. Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết và nhận diện các điển hình có nơi thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ; thiếu kiên quyết trong việc xây dựng và ban hành các quy chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ. Không ít cán bộ chính quyền ở cơ sở có hiện tượng dễ làm, khó bỏ, thiếu công tâm, chưa thực sự vì dân, còn thiên lệch, nể nang, bênh vực, bao che cho những việc làm sai của người cùng cánh...
Những hạn chế, yếu kém trên đây đang gây nên những lực cản không nhỏ trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động... Trước thực tế đó, để củng cố và mở rộng dân chủ ở cơ sở trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải làm tốt những nội dung sau:
Một là, tiếp tục thực hiện mở rộng dân chủ trên lĩnh vực kinh tế
Để thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, phải tôn trọng và đảm bảo các lợi ích chính đáng của người lao động thông qua các chính sách kinh tế và chính sách xã hội đối với các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên tinh thần bình đẳng, công khai, phải tạo lập các điều kiện kinh tế - xã hội cho người lao động có cơ hội như nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ kinh tế; phải thể chế hóa về mặt pháp lý những quyền công dân cơ bản trên lĩnh vực kinh tế. Mở rộng dân chủ trên lĩnh vực kinh tế tạo cơ sở để phát huy dân chủ trên lĩnh vực chính trị. Tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của kinh tế tư nhân, phát triển ngành nghề và các hình thức kinh tế hợp tác để giải phóng mọi năng lực sản xuất của các tầng lớp dân cư đặc biệt ở nông thôn. Thông qua CNH, HĐH để nâng cao trình độ thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực khác và thực hiện dân chủ trong quản lý kinh tế - xã hội ở cơ sở. Thực tiễn công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội những năm qua đã chứng minh rằng việc thực hiện dân chủ trên lĩnh vực kinh tế ở cơ sở đặc biệt khi đã được quy định thành quy chế, tức được pháp chế hóa là giải pháp hữu hiệu giữ vững ổn định chính trị, giải quyết được những bức xúc trong nhân dân, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, trên cơ sở đó trình độ dân chủ ở cơ sở cũng được nâng lên.
Hai là, đối mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trong sạch sẽ thực thi dân chủ có hiệu quả, và ngược lại. Do đó, cần phải tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong hệ thống chính trị và “tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ. Thực hiện trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở” .
Tiếp tục “đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp” . Xây dựng quy chế làm việc nghiêm túc của các cơ quan chính quyền các cấp, tạo lập mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền và nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng chính quyền cơ sở, công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của bộ máy chính quyền. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân... Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị, xã hội ở cơ sở “tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội...” .
Ba là, từng bước hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện và phát triển hình thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở
Hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ đại diện nhằm khắc phục dân chủ hình thức trong các hoạt động của cơ quan dân cử và đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở. Nâng cao chất lượng hoạt động của các hình thức dân chủ đại diện thực chất là quá trình hiện thực hóa quyền làm chủ của cộng đồng dân cư ở cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi hoạt động quản lý và điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương dựa theo nguyên tắc và phương pháp dân chủ, tạo điều kiện cho việc tiếp tục “thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” góp phần hoàn thiện hình thức dân chủ trực tiếp ở cơ sở và ngược lại, làm tốt dân chủ trực tiếp sẽ làm cho dân chủ đại diện được thực hiện tốt hơn.
Để mở rộng dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ của nhân dân đòi hỏi: xác định rõ những vấn đề cần có sự tham gia trực tiếp của nhân dân ở cơ sở tương ứng trước khi cấp có thẩm quyền quyết định, nâng cao chất lượng đóng góp của dân vào việc hình thành các quyết định đó. Những vấn đề cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo phải báo cáo trước dân, phải được xác định rõ, chuẩn bị đầy đủ và báo cáo nghiêm túc; tránh cắt xén, báo cáo qua loa hình thức. Xây dựng những thiết chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với lĩnh vực và trình độ của đối tượng tương ứng. Có cơ chế kiểm soát việc thực hiện các thiết chế dân chủ đã được quy định, tránh hiện tượng các thiết chế dân chủ trực tiếp trở thành khẩu hiệu mị dân, nằm trên giấy, cần xây dựng chế tài xử lý cụ thể đối với các vi phạm, tránh tình trạng quy định chung chung, ai vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật.
Bốn là, tăng cường cung cấp thông tin, nâng cao dân trí, bảo đảm định hướng đúng cho thực hiện dân chủ ở cơ sở
Trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển và bùng nổ thông tin, việc cung cấp, định hướng thông tin cho nhân dân là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Thiếu thông tin chính xác sẽ làm cho nhân dân khó có thể phát huy quyền làm chủ của mình. Nhân dân có quyền được thông tin về pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan tới đời sống, lợi ích hàng ngày của nhân dân ở cơ sở; hình thành chế độ báo cáo công khai trước dân công việc chính quyền, cơ quan, đơn vị về sản xuất và phân phối;... Cung cấp thông tin, cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là những kiến thức về pháp luật, để nhân dân có thể hiểu, biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật để nhân dân có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực để tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Khả năng tiếp nhận, xử lý thông tin một cách chủ động là yêu cầu của quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Những thông tin cung cấp cho nhân dân cần được chọn lọc, định hướng đúng đắn vừa phù hợp trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài. Để khai thác và tiếp nhận thông tin có hiệu quả, Đảng ta chủ trương: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước;... Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại. Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh” .
Năm là, tăng cường xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở
Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, việc xây dựng, củng cố đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn đang được đặt ra như một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước. Đảng ta chủ trương trong thời gian tới cần phải “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân...” .
Từ đó, xác định rõ các chức danh cụ thể trên cơ sở quy mô, đặc điểm, tính chất của mỗi loại hình cơ sở, trong đó yếu tố quyết định khi xác định số lượng cán bộ, công chức là quy mô dân số. Cũng như từng vị trí, quy mô, khối lượng tính chất phức tạp và yêu cầu chất lượng của từng nhiệm vụ ở từng vị trí công việc chuyên môn của cán bộ, công chức; căn cứ vào đặc điểm của đơn vị hành chính (phường, thị trấn) ở các đô thị trong việc xác định các chức danh cán bộ chuyên trách, công chức chuyên môn khác với các đơn vị hành chính xã ở vùng nông thôn. Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý. Tích cực và chủ động tạo nguồn một cách cơ bản, vững chắc. Đồng thời với việc tiêu chuẩn hóa vấn đề tạo nguồn cán bộ, công chức cơ sở cũng đang là đòi hỏi cấp bách, cần triển khai một cách tích cực, khẩn trương. Gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy họach từng loại cán bộ, công chức cơ sở. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã...
Thực hiện dân chủ ở cơ sở luôn luôn là vấn đề mới và phát triển không ngừng, đầy tính sáng tạo. Nó đòi hỏi chúng ta một mặt phải đi sâu nghiên cứu nhận thức đúng đắn về lý luận; mặt khác, thường xuyên đổi mới hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện để đưa Quy chế dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống một cách vững chắc và những yêu cầu của thực tiễn sẽ là nguồn bổ sung quan trọng góp phần củng cố và mở rộng dân chủ ở cơ sở.

TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ VÀO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN VÀ THANH THIẾU NIÊN-GIẢI PHÁP CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Đầu tư vào trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên (Liên Hiệp Quốc định nghĩa “trẻ vị thành niên” là người tuổi từ 10 đến 19; và “thanh thiếu niên” là người ở độ tuổi 14-20) có thể giúp đẩy mạnh hơn nữa cuộc chiến chống đói nghèo, HIV/AIDS, giảm chênh lệch về kinh tế, xã hội và phân biệt về giới. Khi vị thành niên và thanh thiếu niên không được thực hiện các quyền về giáo dục có chất lượng, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ, tham gia và có việc làm tốt, sẽ kéo dài thêm vòng luẩn quẩn của đói nghèo và bị loại trừ, điều này sẽ tước đi của họ những cơ hội để có thể phát triển đầy đủ năng lực của mình, được khỏe mạnh và trở thành thành viên hữu ích cho xã hội.
Theo đại diện UNICEF tại Việt Nam, khoảng 503.400 trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi tại VN phải tham gia vào các hoạt động kinh tế yêu cầu sức làm việc cao. (Ảnh minh họa)
Một số thách thức chính đối với vị thành niên và thanh niên Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia “trẻ” về mặt dân số, với khoảng 26.7 triệu thanh thiếu niên tuổi từ 10 đến 24, chiếm khoảng 1/3 dân số, và hiện tại, 43% dân số Việt Nam ở độ tuổi dưới 24, với 18% ở độ tuổi từ 15-24[1], lực lượng này đang phải đối mặt với nhiều thách thức bao gồm kinh tế không đảm bảo, HIV/AIDS, biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, di cư và đô thị hóa nhanh. Các thách thức này sẽ lớn hơn trong thập kỷ tới, do đó họ cần phải được trang bị các kỹ năng và kiến thức để vượt qua thách thức này. Cụ thể:
Đối với vấn đề việc làm và đào tạo: ở Việt Nam, dân số trẻ chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong lực lượng lao động vào thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai, hiện tỷ lệ nam nữ trong độ tuổi từ 15 đến 19 tham gia vào lực lượng lao động tăng từ 37,1% năm 2007 lên 43,8% năm 2009 cho thấy con số thanh thiếu niên bỏ học tương đối sớm để tìm việc làm ngày càng cao[2]. Dường như ngày càng nhiều thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 24 làm các công việc không phù hợp với chuyên môn của họ do hai nguyên nhân chính: hoặc là không có việc làm phù hợp với trình độ học vấn của họ hoặc là họ ít kinh nghiệm làm việc mà công việc đòi hỏi những người lớn tuổi. Năm 2009, với tỷ lệ thất nghiệp 6,2% và tỷ lệ thiếu việc làm 6,8%, nam nữ thanh niên Việt Nam chiếm gần 56% tỷ lệ người thất nghiệp[3].
Tuy nhiên vẫn tồn tại một nghịch lý là tỷ lệ thanh niên Việt Nam có việc làm vẫn nghèo cao hơn tỷ lệ người lớn tuổi có việc làm vẫn nghèo là trên 50%. Điều này chứng tỏ thanh niên rơi vào tình cảnh bất lợi hơn những người trưởng thành, không những thể hiện ở tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mà còn thể hiện ở nguy cơ rơi vào nhóm những người có việc làm vần nghèo cao hơn.  Số liệu về việc làm thu được từ Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 cho thấy tỷ lệ thanh niên tham gia vào lực lượng lao động biến động rất lớn  theo khu vực địa lý, trong khi tỷ lệ thanh niên có việc làm ở các khu vực Miền núi và phía bắc là gần 80% thì tỷ lệ thanh niên có việc làm ở vùng châu thổ Sông Hồng sụt giảm xuống mức chỉ khoảng 50%.
Đối với công tác bảo vệ: ước tính 5,8% phụ nữ trẻ đã hoặc đang có gia đình ở độ tuổi 15-24 ở Việt Nam từng bị chồng đánh đập[4] và trong số những trẻ em bỏ nhà đi, hầu hết là do muốn tránh khỏi bạo lực gia đình[5]. Theo Bộ LĐ-TB&XH, vài năm trở lại đây, số trẻ em bị xâm phạm tình dục (XPTD) liên tục gia tăng, từ 200 em năm 2005 tăng lên 833 em năm 2009 và ước tính năm 2010 là 900 em. Đây là số trẻ em bị XPTD được trình báo. Trên thực tế, con số này có thể còn cao hơn do công tác quản lý, nắm tình hình chưa chặt chẽ; nhiều vụ XPTD trẻ em bị che giấu do tâm lý mặc cảm của gia đình nạn nhân, sợ ảnh hưởng đến tương lai của trẻ hoặc không tố giác do có sự thỏa thuận bồi thường giữa hai bên...
Địa bàn xảy ra nhiều vụ XPTD trẻ em là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, rồi đến Đông Nam bộ. Địa phương xảy ra nhiều trẻ em bị XPTD là Hà Nội, Quảng Ninh, Gia Lai, Đắc Lắc, Đồng Nai, Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Đối tượng phạm tội phần lớn là người gần gũi với nạn nhân (chiếm 56,1%). Một số vụ XPTD trẻ em có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Tình trạng loạn luân (bố đẻ XPTD với con gái chiếm 0,6%, bố dượng XPTD với con riêng của vợ chiếm 1%) tuy tỷ lệ thấp nhưng cũng ảnh hưởng lớn đến truyền thống đạo đức gia đình và an toàn xã hội[6].  Nạn buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và các sản phẩm khiêu dâm trẻ em hiện đang lan rộng. Các báo cáo chính thức tại Hà Nội, Tiền Giang, Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh cho thấy hiện tượng phụ nữ hành nghề mại dâm ở nhóm trẻ tuổi ngày một gia tăng, và 2% lao động tình dục là người chưa thành niên.
Hiện có khoảng 503.400 trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi tại Việt Nam phải tham gia vào các hoạt động kinh tế yêu cầu sức làm việc cao và 633.400 trẻ em phải làm việc nhiều giờ mỗi ngày[7]. Trong đó, trẻ em ở khu vực nông thôn, trẻ em ở lứa tuổi lớn hơn, trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em không được đến trường là những nhóm có nhiều nguy cơ phải lao động hơn so với các nhóm trẻ em khác. Và hiện còn thiếu nghiêm trọng số lượng cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp để thực hiện chăm sóc và hỗ trợ thanh thiếu niên đang phải gánh chịu hoặc có nguy cơ bị xâm hại, lạm dụng và bóc lột, cũng như những thanh thiếu niên cần được chăm sóc bảo vệ đặc biệt.
Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất côn đồ hung hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (Bộ Công an) thì trong 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra 5.746 vụ, với khoảng 9.000 người người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự, tăng 2% số vụ so với cùng kỳ năm 2007[8]. Năm 2009, Bộ Tư pháp cho biết có 15.589 trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật. Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện.
Khoảng 283.700 trẻ em và trẻ vị thành niên từ 0-15 tuổi bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, nhiều trong số này đối mặt với nguy cơ lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, theo điều tra quốc gia lần thứ 2 về thanh niên và vị thành niên việt Nam (SAVY II)[9], chỉ có 42,5% thanh niên trong độ tuổi 15-24 có hiểu biết toàn diện về đường lây truyền HIV so với mục tiêu quốc gia là 95% trong năm 2010. Bên cạnh đó, cũng theo SAVY II, thanh thiếu niên ở độ tuổi 15-24 chiếm đa số lượng người di cư ở Việt Nam, chủ yếu là di cư đến các khu vực thành thị và phần lớn trong số này là nữ. Điều này đã góp một phần quan trọng thúc đẩy sự gia tăng dân số đô thị trong những năm gần đây.
Đối với vấn đề giáo dục: Tỷ lệ biết chữ ở người từ 15 tuổi trở lên tăng từ 90% năm 1999 lên 93,5% năm 2009. Khoảng cách biết chữ giữa nam và nữ cũng đã được thu hẹp. Năm 2009 có 95,8% nam từ 15 tuổi trở lên có thể đọc thông viết thạo và hiểu tiếng Việt hoặc một thứ tiếng nước ngoài hoặc một tiếng dân tộc thiểu số khác[10] so với 91,3% nữ ở cùng độ tuổi. Năm 2009, tỷ lệ biết chữ ở thanh niên là 97,1% và sự chênh lệch giữa nam và nữ là 0,6%. Vùng Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ thanh niên biết chữ cao nhất, 99, 2% và chênh lệch giữa nam, nữ biết chữ là rất nhỏ. Ngược lại, vùng trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ biết chữ thấp nhất, 91,2% và chênh lệch giữa nam, nữ biết chữ ở khu vực này là cao nhất[11].
Về vấn đề di cư: Hiện tượng di cư ở thanh niên là một phần quan trọng của quá trình đô thị hóa đang diễn ra ngày một nhanh chóng ở Việt Nam, trên 1/3 (38%) thanh niên tham gia trả lời khảo sát của SAVY II đã từng sống xa gia đình liên tục trong 1 tháng hoặc lâu hơn, hầu hết những người  này sống xa gia đình để “kiếm sống” hoặc “đi học’. Nam thanh niên di cư đến địa phương khác để kiếm sống nhiều hơn nữ thanh thiếu niên, và thanh niên khu vực nông thôn di cư nhiều hơn so với thanh thiếu niên ở thành thị. Thanh thiếu niên ở độ tuổi 15-24 chiếm đa số trong lượng người di cư ở Việt Nam, và phần lớn trong các em này là nữ. Hiện tượng di cư này ở thanh thiếu niên không chỉ ảnh hưởng đến cấu trúc tuổi và giới của dân số ở các cấp khu vực và cấp tỉnh, mà còn góp phần đáng kể vào quá trình đô thị hóa đang tiếp diễn hiện nay. Lực lượng dân di cư này cũng đóng một vai trò quan trọng đối với sự gia tăng của đô thị trong thập kỷ qua.
  Vấn đề sức khỏe: Theo kết quả điều tra của SAVY II, các vấn đề sức khỏe hiện tại/mãn tính phổ biến nhất đối với thanh niên là bệnh tim mạch (21,8%), các bệnh về tiêu hóa (20,4%), hen suyễn (3,4%), các vấn đề về thị lực (3,3%), các bệnh liên quan đến đường hô hấp khác (0,7%); Tỷ lệ nạo phá thai ở vị thành niên là 2,2% trong tổng số các ca nạo phá thai năm 2010 (theo Báo cáo về sức khỏe sinh sản của Bộ Y tế năm 2010). Trong khi đó, khoảng 1/3 thanh niên và vị thành niên Việt Nam còn gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ tư vấn và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó 20% thuộc lứa tuổi vị thành niên, thậm chí có em mới... 12 tuổi và 7,6% trong độ tuổi này có quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đó là chưa kể tới rất nhiều ca nạo phá thai tại những cơ sở y tế tư nhân nhưng không thể kiểm soát và thống kê được[12].
Đầu tư vào trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên là cấp thiết
Trước hết, đầu tư vào trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên là một việc làm phù hợp với nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em, áp dụng cho mọi đối tượng trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi, và Công ước về xóa bỏ mọi hình thức Bạo lực đối với Phụ nữ, áp dụng cho mọi trẻ em gái vị thành niên. Để thực hiện cam kết đối với trẻ em và thanh thiếu niên theo các công ước này và để nghiêm túc thực hiện cam kết của Việt Nam đối với Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trước thời hạn 2015, chúng ta cần phải đưa vấn đề an sinh và quyền của trẻ vị thành niên trở thành một phần không thể thiếu của các chương trình nghị sự.
Thứ hai, đây là cách hiệu quả nhất nhằm củng cố những kết quả đã đạt được có tính lịch sử cho trẻ em ở Việt Nam trong những năm đầu đời (từ 0 đến 4 tuổi) kể từ năm 1990, với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi giảm một nửa từ năm 1990 và 2006, gần như xóa bỏ hoàn toàn chênh lệch về giới trong tỷ lệ nhập học cấp tiểu học ở một số tỉnh, và những cải thiện đáng kể trong khả năng tiếp cận giáo dục tiểu học, nước sạch, tiêm chủng định kỳ và những loại thuốc thiết yếu như ARV trong điều trị HIV.
 Thứ ba, đầu tư vào trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên có thể giúp đẩy nhanh cuộc đấu tranh chống đói nghèo, HIV/AIDS, bất bình đẳng về kinh tế-xã hội và phân biệt đối xử giới. Bất bình đẳng thường bộc lộ rất rõ ràng ở tuổi vị thành niên: trẻ em nghèo hoặc sống bên lề xã hội ít có khả năng được học lên cấp trung học và nhiều khả năng phải trải qua những sự lạm dụng như: tảo hôn, tình dục sớm, bạo lực và lao động giúp việc gia đình-đặc biệt là đối với các em gái. Việc chối bỏ quyền của trẻ vị thành niên được giáo dục và được chăm sóc sức khỏe một cách có chất lượng, được bảo vệ và được tham gia sẽ kéo dài mãi cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói và tình trạng bị gạt ra ngoài lề đã tước đi của họ cơ hội được phát triển tối đa tiềm năng của mình.
Thứ tư, đầu tư vào vị thành niên và thanh thiếu niên sẽ giúp tăng cường các nỗ lực của chúng ta nhằm giải quyết các thách thức lớn của thời đại: biến đổi khí hậu, bất ổn định kinh tế, đô thị hóa và di cư bùng nổ. Để có thể giải quyết hiệu quả các hậu quả qua nhiều thế hệ của những thách thức này, trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên cần phải được đối xử như những đối tác bình đẳng và cần được trang bị những kỹ năng, năng lực và hiểu biết phù hợp.
Thứ năm, mặc dù trẻ vị thành niên thường được gọi là “thế hệ tương lai”, nhưng chúng ta không nên quên rằng đây cũng là một phần đáng kể của thế hệ các công dân toàn cầu hiện đại-đang sống, lao động và đóng góp cho các gia đình, cộng đồng, xã hội và nền kinh tế. Do đó, lực lượng này xứng đáng được công nhận, được bảo vệ và chăm sóc, được sử dụng các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu, được tạo cơ hội, được giúp đỡ.
Thứ sáu, thanh thiếu niên đang đi tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng như phòng chống HIV và bảo vệ môi trường, trong việc ứng dụng các công nghệ mới-để kết nối, sáng tạo và lên tiếng kêu gọi thay đổi. Thanh thiếu niên cũng thách thức các chuẩn mực truyền thống có tính lạc hậu…
  Một số khuyến nghị
Một là, cần có những thay đối cấp tiến trong mối quan hệ giữa người lớn và trẻ em, thanh thiếu niên. Chính phủ cần có những đối thoại nhằm đạt được những hiểu biết chung để chung sức giải quyết các thách thức phía trước, đồng thời cần đầu tư hơn nữa vào việc phát triển các trung tâm văn hóa, thể thao, câu lạc bộ thanh thiếu niên và cho các chương trình tình nguyện viên, nhằm cải thiện sự phát triển về mặt xã hội của thanh thiếu niên.
Hai là, tăng cường củng cố các hệ thống bảo trợ xã hội, đồng thời cần trang bị năng lực cho các dịch vụ xã hội và dịch vụ bảo trợ chuyên nghiệp để đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các đối tượng trẻ em và thanh thiếu niên dễ bị tổn thương, thiết lập một “hệ thống liên tục các dịch vụ” nhằm đảm bảo công tác bảo vệ và phúc lợi cho trẻ em và thanh thiếu niên ở mọi thời điểm và ở tất cả các cấp. Xây dựng cơ chế rõ ràng cho việc ngăn chặn, phát hiện sớm và xác định các đối tượng trẻ em dễ bị tổn thương cũng như gia đình có nguy cơ. Nhanh chóng thiết lập một cơ quan chuyên trách hoặc có quy trình riêng biệt cho công tác điều tra các khiếu kiện về lạm dụng trẻ em và thanh thiến niên.
 Ba là, cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc xóa nạn mù chữ ở các tỉnh khó khăn thuộc khu vực Trung du, miền núi phía Bắc, chú trong hơn nữa nhằm giảm chênh lệch về giới trong tỷ lệ người biết chữ. Tăng cường đầu tư của xã hội vào giáo dục, đào tạo và sức khỏe của thanh thiếu niên. Nhà trường cần tăng cường hơn nữa giáo dục kỹ năng sống, kiến thức về giới tính, gia đình, phòng chống HIV/AIDS… một cách có hệ thống thông qua chương trình chính khóa và ngoại khóa, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất để họ phát biểu ý kiến và tham gia vào quá trình học tập cũng như quản lý nhà trường. Việc dạy nghề cần phải được cải thiện để giúp trang bị cho thanh niên các kỹ năng chuyên nghiệp nhằm giúp họ có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trường lao động.
Bốn là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về HIV, tư vấn, xét nghiệm tự nguyện, trợ giúp pháp lý, chăm sóc sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản và HIV; tạo ra môi trường an toàn và thân thiện cho thanh thiếu niên có nguy cơ lây nhiễm HIV cao để giúp giảm bớt sự kỳ thị đang ngăn thanh thiếu niên không tiếp cận được tới các dịch vụ về phòng chống HIV; cần tiến hành nhiều nghiên cứu hơn về những nhóm thanh thiếu niên có nguy cơ lây nhiễm HIV cao để cung cấp các số liệu và bằng chứng có chất lượng nhằm xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả cao hơn.
Năm là, cần nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của việc tạo khả năng tiếp cận đầy đủ cho mọi người di cư với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là các dịch vụ sinh sản. Các chính sách phát triển đô thị cần khuyến khích cung cấp các dịch vụ xã hội có chất lượng và cơ hội việc làm cho người di cư, đặc biệt, do nữ giới chiếm một tỷ lệ lớn trong số thanh thiếu niên di cư, cho nên cần cung cấp cho đối tượng này các dịch vụ sức khỏe sinh sản nhằm giúp bảo vệ họ trước nguy cơ không cần thiết đối với sức khỏe.  
Sáu là, cần thực hiện sự phối hợp tốt giữa các ngành, các bộ về những vấn đề chung đối với thanh thiếu niên. Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực của cán bộ y tế địa phương (đặc biệt là vùng sâu vùng xa) trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản vị thành niên. Việc cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản cần thân thiện với thanh niên hơn, đặc biệt đối với HIV và các bệnh lây lan qua đường tình dục. Ngoài ra, cần sự hỗ trợ của của các phương tiện thông tin đại chúng để người lớn có cái nhìn toàn diện hơn về thanh thiếu niên, tổ chức cho thanh niên tham gia những hoạt động của cộng đồng nhằm xóa bỏ khoảng cách giữa thanh niên và người lớn, giáo dục cộng đồng hiểu về các nhu cầu của thanh niên, những đóng góp tích cực của thanh niên với cộng đồng, và các phương pháp giúp đỡ vị thành niên tốt hơn, qua đó cung cấp cho vị thanh niên các kỹ năng cần thiết để có thể có đủ bản lãnh vững  bước vào đời.
          Tuổi vị thành niên và thanh thiếu niên là một trong những giai đoạn sôi nổi và có lẽ phức tạp nhất của cuộc đời con người, thời điểm mà giới trẻ đảm nhận trách nhiệm mới và tự mình học hỏi, thử nghiệm và khám phá. Họ đi tìm bản sắc riêng của mình, áp dụng những giá trị đã được lĩnh hội từ thời thơ ấu, và phát triển thêm các kỹ năng mới để trở thành những người lớn có trách nhiệm và biết quan tâm đến người khác. Khi được giúp đỡ và động viên, họ sẽ phát triển tích cực và trở thành những thành viên có năng lực với nhiều đóng góp cho gia đình và cộng đồng. Tràn trề khí thế, được thôi thúc bởi lòng hiếu kỳ không dễ bị dập tắt, giới trẻ có khẳ năng thay đổi những hành vi tiêu cực trong xã hội, bức phá vòng luẩn quẩn của sự xung đột và phân biệt đối xử vốn đã ăn sâu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với sự sáng tạo và lòng nhiệt tình của mình, giới trẻ có thể tạo ra nhiều thay đổi tích cực, đem lại một xã hội tốt đẹp hơn cho bản thân và mọi người.


[1] Điều tra biến động dân số năm 2007: Phát hiện chính, GSO (Tổng Cục Thống Kê), 2008.
[2] Báo cáo các xu hướng Việc làm tại Việt Nam, ILO (2010)
[3] Báo cáo các xu hướng Việc làm tại Việt Nam, ILO năm 2010.
[4] Giang LM, Nguy cơ nhiễm HIV ở nam thanh thiếu niên di cư sử dụng ma túy ở Hà Nội, 2006.
[5] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị khác (2008). Kết quả Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006.
[6] Quỳnh Anh. Trẻ em bị xâm phạm tình dục gia tăng: Trách nhiệm của gia đình - nhà trường - xã hội, http://hanoimoi.com.vn, 01/03/2011.
[7] UNICEF. Phân tích tình hình trẻ em Việt Nam năm 2010.

[8] TS. Đinh Xuân Nam. Thực trạng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (136), tháng 12/2008.

[9] Tổng số có 10.044 thanh thiếu niên ở độ tuổi 14-25 sống tại 63 tỉnh/thành phố ở Việt Nam tham gia trả lời khảo sát trong Điều tra SAVY II.
[10] Định nghĩa về biết chữ trong bộ câu hỏi của Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009.
[11] Thanh niên Việt Nam-các số liệu điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009. Tài liệu dự thảo của UNFPA (Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc).
[12] Mạnh Hùng, Nạo phá thai ở tuổi vị thành niên: Chuyện đau lòng!,   www.suckhoedoisong.vn, ngày 13/5/2009.

ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán với quan điểm, coi việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là một quy luật tất yếu cho sự vận động và phát triển của Đảng. Đây là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn kết với nhau vì mục tiêu đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới để Đảng luôn tồn tại với tư cách người lãnh đạo cách mạng, luôn phát triển với tư cách Đảng cầm quyền. Do vậy, với Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt, mang tầm chiến lược, mà còn là công việc thường xuyên của Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng, bởi “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[1]. Điều đó được thể hiện trên các vấn đề:
1. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt
Lịch sử đã chứng minh, một trong những nguyên nhân đưa đến sự thất bại của các tổ chức cách mạng trước khi có sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt nam, là các tổ chức đó đều thiếu một đảng tiên phong đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động, đặc biệt là thiếu một chủ nghĩa làm gốc. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề “phải có chủ nghĩa làm cốt”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tầu không có bàn chỉ nam” và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[2], “chủ nghĩa Mã Khắc Tư (Mác) và Lênin”[3]
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận lá phiếu bầu cử Quốc hội và HĐND khóa II ngày 8/5/1960
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trước hết phải dựa trên nguyên tắc nền tảng là nắm vững và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm cốt”. Bởi, đối với sự vận động và phát triển của Đảng ta, chủ nghĩa Mác – Lênin, theo Hồ Chí Minh, không chỉ là “lý luận cách mạng tiền phong”, là “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng”, mà còn là “học thuyết dạt dào sức sống”, có khả năng làm cho Đảng ta “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc” và giúp cho Đảng ta “khơi nguồn sức mạnh” của chính mình, “khơi nguồn lực lượng và sức mạnh sáng tạo của nhân dân” để giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Điều đó không có nghĩa là giáo điều theo từng câu, từng chữ của C.Mác, Ph. Ăngghen, hay V.I.Lênin, mà như Hồ Chí Minh đã nói, là nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của văn hoá dân tộc và nhân loại, tham khảo những kinh nghiệm của các nước, các Đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn cho cách mạng Việt Nam; là phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, hiểu rõ phong trào cách mạng Việt Nam để vận dụng sáng tạo và hơn nữa, còn bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Luôn luôn kiên định con đường đã lựa chọn
Kiên định con đường đã chọn là một trong những nguyên tắc, nội dung căn bản đảm bảo vai trò lãnh đạo, cũng như để tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh của dân tộc, chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo Đảng và cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng phải kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội – “con đường chung của thời đại, của lịch sử” – trên đất nước ta; kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; kiên định sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển và thực hành dân chủ rộng rãi với tư cách “cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”; xây dựng và phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để làm tròn sứ mệnh lịch sử lớn lao đó, theo Người, Đảng phải dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết từ bỏ những gì đã trở nên lạc hậu, lỗi thời hay sai trái để tạo ra những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. Tức là, “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”[4].
3. Đảng phải đặt lợi ích của nhân dân, dân tộc lên trên hết, trước hết
Sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành. Nhân dân là người làm ra lịch sử. Sức mạnh của nhân dân là vô địch. Không có nhân dân, Đảng, Chính phủ không có lực lượng. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới này không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của nhân dân. Có dân là có tất cả. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”... và trong chế độ mới, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân; Đảng cầm quyền nhưng nhân dân là chủ; không chỉ có nước mới lấy dân làm gốc, mà Đảng cũng phải lấy dân làm gốc, bởi cái gốc này chính là cái đem lại sinh lực vô tận cho Đảng; Đảng cầm quyền nhưng Đảng không có quyền lợi gì của riêng mình, ngoài quyền lợi của giai cấp, của dân tộc, của nhân dân. Đối với cán bộ, đảng viên phải luôn “đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”... Tóm lại, Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí” để Đảng không ở trên dân, cũng không ở ngoài dân, mà ở trong dân, trong lòng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”[5].
4. Phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, đoàn kết là cái làm nên sức mạnh to lớn của Đảng, là cội nguồn dẫn đến mọi thành công của Đảng, đoàn kết trong Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân và với tư cách là hiện thân cho sự đoàn kết trong Đảng, mỗi khi “nói về Đảng”, về sự gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng, bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói về việc giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Thấu hiểu và nhận thức sâu sắc về vai trò cực kỳ quan trọng của sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, Người đã khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta” và chính là “nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Chính vì thế, Người yêu cầu Đảng ta, từ Trung ương đến các chi bộ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên thường, đều “cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[6].
Ở đó, sự thống nhất về đường lối, về quan điểm là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về hành động trong toàn Đảng nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Không chỉ thế, Người còn cho rằng, trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, khi tình hình càng phức tạp, nhiệm vụ càng nặng nề thì khi đó, “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”, bởi sự đoàn kết thống nhất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng lớn đến sự đoàn kết thống nhất của nhiều cán bộ, đảng viên, đến sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng[7].
5. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình
Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết phải lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức của Đảng để tạo nên trong toàn Đảng sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động và làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”, vừa phát huy được sức mạnh của mỗi đảng viên, vừa phát huy được sức mạnh của toàn Đảng; phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để mọi cán bộ, đảng viên đều có thể tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề hệ trọng của Đảng; thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách với tư cách nguyên tắc lãnh đạo của Đảng và đặc biệt, phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tư cách nguyên tắc sinh hoạt của Đảng, quy luật phát triển của Đảng, là phương thức không những phải “luôn luôn dùng”, mà còn phải “khéo dùng”, phương thức tốt nhất, hiệu quả nhất và là “vũ khí sắc bén” để giữ gìn, củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nói về điều này, Người đã nhấn mạnh rằng, “muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Rằng, “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”[8], tự phê bình và phê bình phải trở thành công việc hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, từ người lãnh đạo đến đảng viên thường, từ cấp trên đến cấp dưới đều phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện “tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Làm được như thế thì theo Người, “trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng”.
Tự phê bình và phê bình không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng, mà còn cần phải được mở rộng đến mọi tầng lớp nhân dân lao động. Để tiến bộ, mọi cán bộ, đảng viên đều phải biết “lắng nghe ý kiến của quần chúng”, “phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”, đồng thời phải thường xuyên nâng cao tính tự giác và luôn giữ thái độ trung thực, đúng mực trong tự phê bình và phê bình, phải “biết thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”. Trong tự phê bình và phê bình, theo Người, không được cá nhân chủ nghĩa, không được phép mưu cầu lợi ích cá nhân, không được kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại, phê bình người khác nhưng lại không muốn người khác phê bình mình, không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không nghiêm túc, không thật thà, “sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín”. Tự phê bình và phê bình, Người nhấn mạnh, không phải chủ yếu là để xử lý, mà cái chính là để mỗi cán bộ, đảng viên đều nhận thức rõ mặt tốt mà phát huy, mặt còn yếu kém mà khắc phục, sửa chữa, nhất là để cùng nhau tiến bộ và đặc biệt, trong tự phê bình và phê bình phải lấy “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” làm phương châm chủ đạo.
6. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên
Coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, đạo đức cách mạng là cơ sở nền tảng của Đảng cầm quyền, là “quyết tâm suốt đời” đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, “ra sức làm việc” cho Đảng, giữ vững kỷ luật Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình; “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi công việc;..., Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[9]. Rằng, sự nghiệp cách mạng rất vẻ vang nhưng cũng vô cùng khó khăn, gian khổ mà Đảng là người lãnh đạo. Chính vì thế, trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại cho chúng ta, khi nói về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cùng với đó, để đảm bảo nguồn lực, lực lượng kế cận sự nghiệp cách mạng trong tương lai, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ những người kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng. Coi việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, Người luôn yêu cầu Đảng ta phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người cách mạng vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Như vậy, có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, sự gắn kết giữa xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng là để xây dựng Đảng ta thành một Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp cách mạng to lớn của giai cấp và của dân tộc, một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, một Đảng tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Gắn kết xây dựng Đảng với chỉnh đốn Đảng vì mục tiêu lâu dài ấy, trước hết phải làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết thống nhất trên cơ sở tự phê bình và phê bình, thực hành dân chủ rộng rãi, phải làm cho Đảng trở thành một Đảng có đạo đức, có trí tuệ và hơn nữa, phải làm cho Đảng luôn là một Đảng cầm quyền, luôn xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, thiết lập “quan hệ máu thịt” với nhân dân, thực hiện “Đảng – dân một ý chí”; đồng thời phải chăm lo đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau và góp phần đắc lực vào việc xây dựng khối đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, việc chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết để Đảng ta thực sự giữ vững và xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Từ đó, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.268.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.268
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.2, tr.280.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 261.
[5] Hồ Chí Minh. Sđd., t.3, tr. 3.
[6] Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr. 497.
[7] Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr. 492.
[8] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 239.
[9] Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr. 283.

QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG TA TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY

Hơn 20 năm đổi mới vừa qua, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta đã không ngừng nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện ngày càng có hiệu quả các hệ thống chính sách, trong đó có chính sách xã hội (CSXH), điều này đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.

Tại Đại hội VI (1986) Đảng ta đã chỉ rõ: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và CSXH, khắc phục thái độ coi nhẹ CSXH tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trên cơ sở khẳng định quan điểm lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, Đảng ta khẳng định: “CSXH bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... coi nhẹ CSXH tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây là lần đầu tiên khái niệm CSXH được đề cập trong văn kiện với tư cách là một hệ thống nằm trong tổ hợp chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia. CSXH không tồn tại độc lập mà nó luôn gắn liền với chính sách kinh tế, Đảng xác định: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện CSXH, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế”. Sau 05 năm đổi mới, thực hiện CSXH đã đạt được những tiến bộ nhất định, đời sống của một bộ phận nhân dân so với 05 năm trước ổn định hơn và nhiều mặt được cải thiện. Tuy nhiên, CSXH vẫn chưa được quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó và còn nhiều thiếu sót nên đại bộ phận nhân dân, nhất là cán bộ công chức nhà nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội VI, Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục khẳng định vai trò của CSXH đối với phát triển kinh tế: “Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các CSXH, thực hiện tốt CSXH là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Chính vì thế, “Cần huy động mọi khả năng của Nhà nước và của nhân dân, Trung ương và địa phương để cùng nhau giải quyết những vấn đề của CSXH. Xây dựng các quỹ BHXH của nhân dân trong tất cả các thành phần kinh tế; phát triển các hiệp hội từ thiện nhân đạo để phát huy truyền thống nhân ái tương trợ lẫn nhau của dân tộc ta, đồng thời hỗ trợ Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề xã hội”. CSXH bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất… CSXH cũng nhằm xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ. Trên cơ sở những nhận thức mới về phát triển xã hội được hình thành từ thực tiễn phát triển đất nước sau 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra một hệ thống quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển… Các vấn đề CSXH đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình tổng thể tư duy lý luận của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa thích ứng với nhu cầu tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vừa hướng tới giá trị công bằng và tiến bộ xã hội. Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đại hội VIII, các CSXH có sự đổi mới. Chính sách lao động và việc làm đã gắn kết với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, phát triển sản xuất. Chính sách xoá đói giảm nghèo được đặc biệt coi trọng với việc hình thành Chương trình quốc gia theo Quyết định 133 của Thủ tướng Chính phủ (23 - 07 - 1998). Ưu đãi người có công được luật hoá bằng Pháp lệnh do Quốc hội ban lệnh với những chế độ trợ cấp ưu đãi đặc biệt. Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo bằng mở rộng mạng lưới y tế đến cộng đồng dân cư, thực hiện chế độ bảo hiểm y tế. Phòng và chống tệ nạn xã hội được đảm bảo bằng luật pháp; Mở rộng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đảm bảo cho người có công và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã, phường nơi cư trú. Đại hội Đảng lần thứ IX và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về CSXH của Đại hội VIII, với những nội dung cơ bản: Giải quyết CSXH phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế”. Trong giải quyết các CSXH, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn. Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng thời, “thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”. Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng, trong khi khẳng định những thành tựu đạt được là cơ bản, đồng thời cũng chỉ rõ những hạn chế trong việc tổ chức thực hiện một số CSXH như: Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra; nhu cầu về việc làm ở thành thị và nông thôn chưa được đáp ứng tốt; tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng... Để khắc phục tình trạng trên, Đại hội X đề ra chủ trương: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm: “Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống BHXH, tiến tới BHYT toàn dân. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, các chính sách ưu đãi xã hội”. Những vấn đề xã hội đã được Đại hội Đảng lần thứ X nhận thức và giải quyết toàn diện cả ở góc độ mục tiêu và hệ thống giải pháp trong tổng thể các chính sách phát triển, mà ở đó con người thực sự là trung tâm, là động lực và mục tiêu của phát triển xã hội bền vững. Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay. Đặc biệt, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tiếp tục khẳng định việc xây dựng và thực hiện một CSXH đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách;... Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của thanh, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý và chất lượng dân số. Trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực: Từ năm 2000-2005, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động và trong 05 năm (2006-2011), đã giải quyết được việc làm cho trên 08 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức hưởng thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ: Chỉ số phát triển con người tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên 0,733 (năm 2008), xếp thứ 100/177 nước, thuộc nhóm trung bình cao; hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015. Tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: GDP bình quân năm tăng, giai đoạn 1986-1990, GDP tăng 4,4%/năm; Giai đoạn 1991-1995, GDP tăng 8,2%/năm; Giai đoạn 1996-2000, GDP tăng 7%/năm; Giai đoạn 2000-2005, GDP tăng 7,5%/năm; Giai đoạn 2006-2011, GDP đạt 7%/năm, tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cùng với đó, công tác giáo dục, đào tạo đã đạt một số kết quả bước đầu. Trong vòng 12 năm qua (từ 1998 - 2010), Nhà nước tăng dần đầu tư giáo dục, đào tạo từ mức hơn 13% lên 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện chế độ miễn giảm học phí (đã có 53% số học sinh, sinh viên được miễn giảm học phí), chế độ cấp học bổng chính sách; chế độ chính sách tín dụng sinh viên (đến nay đã có khoảng 1,6 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để học tập với số tiền 18.000 tỷ đồng). Việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc. Đối với công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ, hành vi của người dân về dân số - kế hoạch hóa gia đình. Quy mô gia đình ít con ngày càng được chấp nhận rộng rãi; hiểu biết và thực hành về kế hoạch hóa gia đình được nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp trách thai của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ tiếp tục tăng, từ 73,9% (năm 2000) tăng lên 76,8% (năm 2005) và 80,3% (năm 2010). Bên cạnh đó, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được mở rộng từ trung ương đến địa phương. Ngoài hệ thống y tế công lập còn có hàng chục nghìn cơ sở y tế tư nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Quy mô trung bình của một gia đình Việt Nam đã giảm từ 4,6 người (năm 1999) xuống còn 3,8 người (năm 2009), gia đình hạt nhân chiếm tới 2/3 tổng số gia đình. Quy mô gia đình nhỏ đã góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế gia đình, tạo điều kiện xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước về ưu đãi xã hội, hệ thống chính sách ưu đãi người có công được xây dựng ngày càng phù hợp hơn với các đối tượng và dần được hoàn thiện. Phong trào “Ðền ơn đáp nghĩa” với năm chương trình hành động cụ thể đã trở thành phong trào cách mạng sâu rộng trong toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta. Quỹ “Ðền ơn đáp nghĩa” được sử dụng hiệu quả trong việc xây dựng cải tạo nhà tình nghĩa, chăm sóc bố mẹ liệt sỹ, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thăm hỏi tặng quà và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình người có công với cách mạng... Mỗi năm, cả nước xây dựng, sửa chữa hơn 15.000 nhà tình nghĩa trị giá hơn 292 tỷ đồng. Quỹ đền ơn đáp nghĩa huy động được 232,4 tỷ đồng. Xây dựng 2.147 công trình và sửa chữa 818 công trình tưởng nhớ liệt sĩ trị giá hơn 220 tỷ đồng. Sự nỗ lực của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta và bản thân người có công đã thu được những kết quả khả quan. 85% số xã, phường đạt tiêu chuẩn xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ và người có công, 90% số gia đình chính sách có mức sống trung bình trở lên so với dân cư cùng địa bàn cư trú, nhiều tấm gương người có công điển hình về đạo đức lối sống. Đối với công tác BHXH cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Năm 1996 đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là 2,85 triệu người, thì đến tháng 07/2011 số người tham gia BHXH, BHYT trên 53 triệu người, trong đó có trên 9,6 triệu người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc (trong đó có trên 7,4 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp). Diện bao phủ BHYT đã tăng vượt bậc, từ 45% dân số trước khi thực hiện Luật BHYT lên trên 60% dân số (50,7 triệu người tham gia và gần 2 triệu trẻ em dưới 6 tuổi không có thẻ BHYT nhưng vẫn được đảm bảo quyền lợi khám, chữa bệnh BHYT). Năm 2010 có trên 106 triệu lượt người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh và được quỹ BHYT chi trả trên 19.000 tỷ đồng. Số người tham gia BHYT tăng nhanh đã góp phần củng cố và tạo nguồn tài chính ổn định, vững chắc cho công tác khám, chữa bệnh  BHYT và tạo tiền đề để xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Năm 2010, BHXH các tỉnh, thành phố, Bộ Quốc phòng, CAND, Ban Cơ yếu Chính phủ đã giải quyết chế độ cho 140.200 người hưởng BHXH hàng tháng; 590.100 người hưởng BHXH một lần; trên 4,7 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức - phục hồi sức khỏe. Chi BHXH bắt buộc ước thực hiện là 65.844 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2009, do tăng số người hưởng chế độ và do điều chỉnh mức lương tối thiểu chung lên 730.000 đồng vào tháng 05/2010. Đây cũng là năm đầu tiên thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp. Số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 156.765 (chiếm 96% số người nộp hồ sơ); số người được tư vấn giới thiệu việc làm là 125.562 (chiếm 80% số người hưởng trợ cấp thất nghiệp). Tính cả giai đoạn 2007-2010, Chính phủ đã 04 lần điều chỉnh lương hưu với mức điều chỉnh tăng thêm 62,7% so với lương hưu của tháng 12/2006. Đến năm 2010, tổng số đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng là 1.796.734 người,  với mức lương hưu bình quân là 2.197.199 đồng/người/tháng. Thực tiễn thực hiện mục tiêu phát triển xã hội trong hơn 20 năm qua, với những nỗ lực, cố gắng không ngừng, tư duy lý luận của Đảng về CSXH đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện: Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của CSXH trong mối quan hệ tương tác với chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với CSXH; Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát hiện. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, đảm bảo quá trình tăng trưởng kinh tế vững chắc, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.  

Tài liệu tham khảo: 1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI 
2. Phạm Ngọc Quang, Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 8 (178) năm 2009. 
3. Dương Minh Đỗ, Thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi người có công, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 14 (182) năm 2009 
4. Nguồn. Báo nhân dân điện tử: Hội nghị biểu dương người có công tiêu biểu toàn quốc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" năm 2010, http://www.nhandan.com.vn, Thứ bảy, ngày 17/07/2010. 
5. Báo Sức khỏe - Đời sống: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế góp phần bảo đảm an sinh xã hội, http:suckhoedoisong.vn, thứ tư 14/04/2010. 
6. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Hơn 61.000 người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, http://www.molisa.gov.vn, ngày 25/03/2011.

CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VÀ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực văn hoá, văn học và nghệ thuật nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đời sống của đại đa số những người hoạt động trong lĩnh vực này còn nhiều khó khăn; chính sách đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng đối với lực lượng này còn thiếu và gặp nhiều vướng mắc trong triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, nhiều ban, ngành cũng chưa quan tâm đúng mức đối với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này.  

Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tập trung vào giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó có việc hướng đến thực hiện mục tiêu: “Tạo mọi điều kiện thuận lợi để đội ngũ văn nghệ sĩ sáng tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; phát hiện và khẳng định những giá trị mới làm phong phú và đa dạng đời sống văn hóa, văn nghệ; góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... Xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp, bình đẳng đối với văn nghệ sĩ trong các cơ sở công lập và ngoài công lập, bảo đảm cho văn nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng; thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa của Đảng và Nhà nước. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và đãi ngộ đặc biệt với nhân tài của đất nước trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật...”(1). Để làm được điều đó, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản như:  

Một là, cần có chính sách đào tạo, đãi ngộ thoả đáng đối với những người hoạt động văn hóa, văn học và nghệ thuật.  
Sáng tạo nghệ thuật cũng như các hình thức sáng tạo khác của con người không thể nảy sinh trong một thời gian ngắn mà cần phải có thời gian để đào luyện, cần phải có một nguồn vật chất đủ mức cần thiết và một bầu không khí tâm lý thuận lợi. Bởi thế, đào tạo, chuẩn bị cho người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật, nhất là người lãnh đạo và quản lý là một quá trình.  

Người làm nghệ thuật không thoát khỏi những ràng buộc về điều kiện sinh hoạt vật chất đời thường. Vì thế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ, xây dựng và thực hiện tốt các chính sách với họ là điều kiện cần để thúc đẩy sự phát triển văn hoá, văn nghệ. Sự chăm sóc, đãi ngộ phải thoả đáng với từng người, bởi sáng tác nghệ thuật là sáng tạo cá nhân, phải có tài năng nghệ thuật thực sự mới có những đỉnh cao trong phát triển văn hoá. Điều đó cũng có nghĩa, đối với hoạt động nghệ thuật, Đảng và Nhà nước phải có đầu tư thích đáng, hợp lý mới có thể gặt hái được những thành tựu.  

Hiện nay, cần thiết phải sửa đổi chính sách, chế độ cho cán bộ hoạt động trong ngành này bởi nhiều chế độ, chính sách không còn phù hợp. “Hiện hệ số các bậc lương quy định cho ngạch diễn viên thấp hơn hệ số bậc lương của một số ngành trong bảng lương viên chức nhà nước... bảng lương của họ quy định như bảng lương viên chức thuộc các ngành khác theo 3 hạng: I (cao cấp), II (ngạch chính), III (cán sự). Muốn nâng ngạch phải đủ tiêu chuẩn theo quy định và phải qua kỳ thi. Nhưng một số ngành như múa thì mới có đến cao đẳng và xiếc thì mới có đến trung cấp... Một số chức danh khác như nhạc sĩ, chỉ huy dàn nhạc... còn áp dụng bảng lương viên chức của chức danh công việc được giao như biên tập viên, chuyên viên... là chưa phù hợp. Lương thì như thế, còn tiền bồi dưỡng thanh sắc, vốn chẳng là bao, nhưng chỉ nghệ sĩ trong biên chế mới được hưởng. Lớp trẻ thì càng thiệt thòi. Nhiều đơn vị mời nghệ sĩ trẻ cộng tác chỉ với lương hợp đồng gần 1 triệu đồng/tháng”(2). 

Chính sách đãi ngộ thoả đáng, hợp tình, hợp lý sẽ giúp cho các nghệ sĩ và các tổ chức hoạt động văn hoá, văn học và nghệ thuật của Nhà nước không bị lệ thuộc vào nhu cầu, trình độ thưởng ngoạn bất kỳ nhưng có khả năng "chi trả" trong công chúng. Từ đó ngăn ngừa khủng hoảng, xuống cấp và tha hoá trong sáng tạo nghệ thuật, tránh được nguy cơ mất đi vai trò định hướng, trở thành nô lệ của loại thị hiếu thấp kém. Đảng ta chủ trương: “Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật”(3).  

Chăm sóc đội ngũ những người hoạt động nghệ thuật còn bao gồm thái độ và xử lý một cách hiểu biết, có lý, có tình khi văn nghệ sĩ có tác phẩm cần xem xét hoặc bản thân có sai lầm, khuyết điểm. Nếu có một cách đối xử khoan dung, đánh giá khách quan, thật sự trân trọng và nâng đỡ văn nghệ sĩ khi họ có tác phẩm tốt cũng như khi họ có vướng mắc, sai lầm thì sẽ cảm hoá, tập hợp được rộng rãi đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động vì sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.  

Hai là, bố trí, sử dụng đúng cán bộ lãnh đạo và quản lý văn hoá, văn học và nghệ thuật.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Văn hoá, văn học và nghệ thuật là lĩnh vực có đặc thù, có vai trò quan trọng trong xây dựng con người mới XHCN. Phụ trách lĩnh vực này, người cán bộ ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức còn phải là người yêu thích, tâm huyết, am hiểu nghề nghiệp, hiểu đặc thù của lao động nghệ thuật, biết cách tổ chức, làm việc với từng cá tính sáng tạo để có được tình cảm của giới văn nghệ sĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn cán bộ: Ai lãnh đạo, hoạt động trong ngành nào thì phải biết chuyên môn về ngành ấy. Trong điều kiện CNH-HĐH hiện nay, công tác cán bộ càng cần phải có chuyển biến nhằm đáp ứng được yêu cầu của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.  

Đội ngũ những người làm công tác văn hoá, văn nghệ nước ta phần lớn được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Mặc dù phẩm chất chính trị, đạo đức của người cán bộ rất quan trọng, không gì có thể thay thế được nhưng không thể lấy đó thay thế trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Người lãnh đạo và quản lý ở các cơ quan văn hoá, văn nghệ có vai trò mang tính quyết định trong việc cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trên địa hạt này.
Hiện nay có tình trạng bố trí người chưa đủ chuẩn cần thiết vào phụ trách lĩnh vực văn hoá, văn học và nghệ thuật. Có những địa phương, đơn vị khi bố trí cán bộ phụ trách văn hoá thường tính đến người làm công tác tuyên huấn, tuyên truyền. Khi có được cán bộ tuyên huấn trong cơ quan lãnh đạo văn hoá thì xem như lĩnh vực này đã đủ người quán xuyến. Nhiều cấp uỷ viên được phân công phụ trách công tác văn hoá, văn nghệ không có kiến thức cơ bản, nếu có thì cũng không đầy đủ về lĩnh vực này nên lúng túng trong công việc. Không ít cơ quan tham mưu cho cấp uỷ không thông thạo về hoạt động nghệ thuật, lúc thì buông lỏng, lúc thì nặng về dùng biện pháp hành chính, nặng cấm đoán, thiếu dân chủ hoặc giản đơn thô thiển, tạo nên bầu không khí tâm lý không thuận lợi cho hoạt động văn nghệ, nhất là với sáng tác. Đây là những nguyên nhân làm giảm hiệu quả lãnh đạo và quản lý trong lĩnh vực này.  

Để bố trí đúng và đủ cán bộ phụ trách các cơ quan văn hoá, văn nghệ, cần tiến hành việc bồi dưỡng phẩm chất chính trị, nâng cao kiến thức chung và thường xuyên bổ túc kiến thức mới về văn hoá. Khâu đào tạo, bồi dưỡng phải được tiến hành một cách có kế hoạch trên cơ sở khảo sát, nắm vững yêu cầu của từng loại đối tượng. Từ những vấn đề thực tiễn, vận dụng lý luận nhận thức mới về văn hoá, xây dựng những quy định lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo và quản lý văn hoá. Khâu quy hoạch cần chuẩn bị một lực lượng cán bộ văn hoá làm cơ sở (nguồn) cho việc lựa chọn những cán bộ có đủ tiêu chuẩn tham gia cấp uỷ và các cơ quan hoạch định chính sách tầm vĩ mô về văn hoá.  

Nền văn hoá, văn học và nghệ thuật nước ta luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều quan trọng bậc nhất đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực này là bố trí đúng cán bộ, đủ năng lực, trình độ, phẩm chất, vượt qua được những chi phối của lợi nhuận để làm việc vì mục đích nhân văn chân chính và được xã hội thừa nhận.  

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đảng viên ở các đơn vị hoạt động văn hoá, văn học và nghệ thuật. Tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các đơn vị hoạt động nghệ thuật là lực lượng nòng cốt đảm bảo cho đường lối chính sách văn hoá, văn nghệ của Đảng được triển khai đúng hướng, có ý nghĩa quan trọng góp phần đảm bảo vai trò lãnh đạo, tổ chức, tập hợp và đoàn kết những người làm công tác văn hoá, văn nghệ theo định hướng của Đảng.  

---------------------------
(1). Quyết định 316/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01-3-2011: Phê duyệt Đề án "Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ; chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học, nghệ thuật" thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
(2). Xuyên Sơn. Về chính sách đãi ngộ: Càng thương các nghệ sĩ!, Báo Lao Động ngày 27-4-2011.
(3). Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG, H.2011, tr.225.