Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

KẾT HỢP PHÁP LUẬT VÀ PHONG TỤC, TẬP QUÁN TRONG VIỆC QUẢN LÝ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đề cao vai trò của pháp luật. Việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội bằng pháp luật “đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội”[1], nhưng đây là một sự điều chỉnh rất công phu, tốn kém, phức tạp, với nhiều công đoạn và không thể đi vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Trong khi đó “hệ thống các quy phạm xã hội ở nước ta hiện nay bao gồm: quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán, hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư, những thể chế của các tổ chức xã hội và tổ chức tôn giáo”[2]… “tuy các quy phạm xã hội ấy không mang tính cưỡng chế cao như quy phạm pháp luật, song lại có tính đa dạng đặc biệt ở chỗ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cưỡng chế với tự nguyện, xử phạt với giáo dục, răn đe với thuyết phục”[3]… Hơn nữa, các quy phạm ấy không chỉ trực tiếp điều tiết mọi hành vi mà còn chế ước cả về phương diện tư tưởng - tâm lý của từng người. Chính vì vậy, để việc quản lý xã hội đạt hiệu quả cao, phản ánh đầy đủ tính chất của một nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt đối với nước ta-một quốc gia đa dân tộc, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt việc kết hợp giữa pháp luật với hệ thống các thiết chế xã hội khác, trong đó gần gũi và trực tiếp nhất là với phong tục, tập quán.
Tập quán là “phương thức ứng xử và hành động đã định hình quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong lao động ở một cá nhân, một cộng đồng. Tập quán gần gũi với thói quen ở chỗ nó mang tính tĩnh tại, bền lâu, khó thay đổi. Trong những tình huống nhất định, tập quán biểu hiện như một hành vi mang tính tự động hoá. Tập quán hoặc xuất hiện và định hình một cách tự phát, hoặc hình thành và ổn định thông qua sự rèn luyện và là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng rõ rệt”[4]. Những hành vi “vi phạm tập quán sẽ bị áp dụng những chế tài nhất định-đó là dư luận xã hội. Tính chất của chế tài này không nặng nề lắm, bởi lẽ, ở tập quán luôn có sự dao động giữa tình trạng bắt buộc với cái rất đáng làm theo”[5].
Phong tục là “toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong tục không mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy nhiên nó cũng không tuỳ tiện, nhất thời như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững. Phong tục của một dân tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, thậm chí của một dòng họ và gia tộc, thể hiện qua nhiều chu kì khác nhau của đời sống con người”[6]. Là một bộ phận của văn hoá, phong tục có vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định đến nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ theo quy định của luật tục hay hương ước. Chính vì thế, phong tục đã trở thành luật tục, ăn sâu và bén rễ trong nhân dân.
Tóm lại, phong tục, tập quán là “những thói quen đã được mọi người tuân thủ tại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy như một phần luật pháp của địa phương”[7], những quy tắc xử sự mang tính cộng đồng, phản ánh nguyện vọng qua nhiều thế hệ của toàn thể dân cư trong một cộng đồng tự quản (làng, xã, khu vực). Nó luôn chi phối, ràng buộc hành vi của con người, buộc con người phải thích nghi, buộc phải tuân theo trong quan hệ với nhau ở mức độ này hay mức độ khác và “những quy chế trong việc quản lý cộng đồng chỉ có thể được cộng đồng chấp nhận và thực hiện một cách tự giác và nghiêm chỉnh, nếu chúng trở thành văn hoá, thành phong tục, tập quán”[8].
Các quy tắc này được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ mang tính tộc người hoặc mang tính khu vực nói riêng. Do đó, các thành viên của cộng đồng thường tin tưởng vào tính công bình, sáng suốt, chính xác của các quy tắc xử sự này, nên chúng thường có tính hiệu lực cao (đặc biệt, khi những phong tục, tập quán được phát triển dưới hình thức hương ước hoặc luật tục). Là là hình thức sơ khai của luật pháp, là sợi dây “ràng buộc hành vi của con người chắc chắn hơn luật pháp rất nhiều lần. Luật tục thường ra đời sớm hơn cả luật pháp và đã trở thành truyền thống bền vững trong nhân dân”[9]. Như vậy, luật tục là hình thức phát triển cao nhất của phong tục, tập quán, nó ra đời, biến đổi và quy định những hành vi của từng cá nhân trong cộng đồng phù hợp hoàn cảnh xã hội và có phương pháp xử lý rất linh hoạt.
Pháp luật “là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu cầu tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lặp trật tự, ổn định cho sự phát triển của xã hội”[10]. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật “phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân lao động. Sự điều chỉnh của pháp luật xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân”[11]. Nhà nước ta đề cao vai trò của pháp luật, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật, quản lý đất nước bằng pháp luật, củng cố những cơ sở pháp luật của đời sống xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là hành lang pháp lý để mọi thành viên trong xã hội bảo đảm tính hợp pháp trong hành động của mình dựa trên những chuẩn mực đó chính là những tiêu chí cụ thể, là cơ sở của sự định hướng hành động để mỗi chủ thể tự điều chỉnh hành vi của mình trong quá trình hoà nhập vào đời sống cộng đồng.
Pháp luật có những thuộc tính cơ bản như: Tính bắt buộc chung; Tính minh bạch, chặt chẽ, ổn định; Tính được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước-nhờ có cơ quan công quyền tiến hành tổ chức đưa pháp luật vào cuộc sống và xử lý vi phạm để quản lý xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng có những điểm yếu cố hữu, đó là tính chủ quan, sự khái quát hoá quá cao khó đi vào cuộc sống và tính dễ bị lạc hậu so với sự đổi thay nhanh chóng của cuộc sống. Đôi khi sự trừng phạt của luật pháp chỉ làm cho người ta sợ mà không vi phạm chứ chưa chắc đã phải là liệu pháp hoàn toàn hữu hiệu trong mọi trường hợp. Điều này cho thấy, pháp luật khác với phong tục, tập quán ở phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật mang tính phổ quát, thống nhất, phản ánh trình độ phát triển chung của xã hội, điều chỉnh trong phạm vi cả nước, còn phong tục, tập quán mang tính riêng, điều chỉnh trong phạm vi một cộng đồng hẹp hơn (làng, xã, tộc người); Phong tục, tập quán thể hiện ý chí và sự đồng thuận của cộng đồng, bản, làng, xã. Là tình cảm, ý nguyện của cả một cộng đồng, là sự tích lũy, chắt lọc các kinh nghiệm trong đời sống và sinh hoạt xã hội, nó không do một cá nhân nào quy định, còn pháp luật mang tính nhà nước, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và có tính áp đặt cao; Các hình thức chế tài của luật pháp khá chi tiết và chặt chẽ, còn phong tục, tập quán chủ yếu là khuyên răn, giáo dục, nghi lễ;...
Mặc dù vậy, pháp luật và phong tục, tập quán lại gặp nhau ở việc chúng đều là phương tiện, là quy tắc điều chỉnh hành vi của con người (cá nhân, cộng đồng và các quan hệ xã hội) với mục đích làm ổn định các quan hệ xã hội, đảm bảo trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển, định hướng cách cư xử của cá nhân theo khuôn mẫu chung. Đặc biệt, trước những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, pháp luật từng bước được hoàn thiện, và các quan hệ xã hội từng bước được pháp luật quy định thì phong tục, tập quán vẫn tồn tại và hỗ trợ cho việc thực hiện pháp luật. Chính vì vậy, việc xác định và đánh giá đúng đắn mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật và phong tục, tập quán có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt đối với nước ta-một quốc gia đa dân tộc.
Thực tiễn đã chứng minh, ngay trong thời kỳ phong kiến, Việt Nam có bốn luật tiêu biểu: Hình thư triều Lý, Hình thư triều Trần, Quốc triều Hình luật triều Lê và Hoàng triều luật lệ của nhà Nguyễn. Cả bốn bộ luật lớn ấy dù giá trị pháp lý có khác nhau nhưng đều tồn tại, phát huy hiệu lực của mình trên một nền tảng pháp lý có tính cơ bản của các cộng đồng người Việt Nam truyền thống là phong tục, tập quán. Trong Điều 40 của Quốc Triều Hình Luật đã ghi rõ: “Những người miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội”. Có thể nói đây là điều luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà làm luật, luật pháp dù có hoàn bị đến đâu cũng không thể phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục, tập quán vốn dĩ đã tồn tại trước cả khi có luật. Việc áp dụng các phong tục, tập quán như vậy đã làm cho các điều khoản của bộ luật phù hợp, sát với thực tế đời sống, dễ hiểu, dễ thực hiện, do đó có tính khả thi cao.
Trong điều kiện hiện nay, khi đất nước ta đang trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế, thực hiện CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh việc: “quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc”[12]. Pháp luật của chúng ta trong thời gian qua đã từng bước thể chế hoá quan điểm, đường lối này của Đảng vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như Hiến pháp, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình,… Điều 5, Hiến pháp năm 1992 đã ghi rõ: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình”; Chỉ thị số 24/1998/CT/TTg ngày 19/6/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của bản làng, thôn ấp, cụm dân cư cũng chỉ rõ: “Nội dung quy ước căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và phù hợp với tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục, tập quán của địa phương”, “duy trì và phát triển phong tục, tập quán tốt đẹp ở cơ sở”, kịp thời “phát hiện và đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, sai trái hoặc lợi dụng hương ước, quy ước để duy trì các hủ tục, tập quán lạc hậu”.
Chính những quy định này đã trở thành tiền đề cho việc giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp trên nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ pháp luật, phù hợp với đạo đức và truyền thống dân tộc, từng bước cải tạo, xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Pháp luật chỉ có hiệu lực thật sự khi được người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Yếu tố phong tục, tập quán chính là điều kiện khách quan giúp cho pháp luật gần với đời sống của người dân, dễ được người dân chấp nhận. Vì vậy, trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật, yếu tố phong tục, tập quán cần phải được quan tâm thoả đáng.
Pháp luật và phong tục, tập quán luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Làm rõ nội dung mối quan hệ này có ý nghĩa về nhiều mặt, vừa làm phong phú thêm pháp luật, vừa đảm bảo hiệu lực điều chỉnh của pháp luật, phát huy được pháp luật trong hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện phong tục, tập quán. Phong tục, tập quán là những yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, đều bị quy định bởi cơ sở kinh tế nhất định trên nền tảng kinh tế-xã hội phù hợp, chúng bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Nếu pháp luật hướng đến trật tự xã hội chung thì phong tục, tập quán hướng đến trật tự cộng đồng; Pháp luật tạo lập đồng thuận xã hội thì phong tục, tập quán tạo lập, củng cố đồng thuận cộng đồng. Song, trật tự xã hội chỉ có thể tồn tại trên cơ sở trật tự của các cộng đồng. Ngược lại, trật tự xã hội được xác lập sẽ làm cho trật tự cộng đồng thêm vững chắc, ổn định. Trong mối quan hệ này, pháp luật có hiệu lực cao hơn, cơ chế điều chỉnh được định hình chặt chẽ hơn. Trong trường hợp giữa pháp luật và phong tục, tập quán có sự xung đột thì phong tục, tập quán phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật có vai trò hướng dẫn, định hướng phong tục, tập quán, làm cho phong tục, tập quán ngày càng tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội.   
Tuy không đóng vai trò là công cụ thực thi quyền lực cao nhất của nhà nước nhưng phong tục, tập quán trong điều kiện nhất định có khả năng thay thế pháp luật. Bởi trên thực tế, trình độ phát triển ở từng vùng, từng địa phương là khác nhau, thậm chí chênh lệch nhau rất lớn cả về trình độ phát triển, đời sống văn hoá, tinh thần, do đó không phải lúc nào, ở đâu pháp luật cũng thâm nhập được vào cuộc sống, cũng có tác dụng điều chỉnh. Đặc biệt, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những vùng sâu, vùng xa thì những quy định của pháp luật trên nhiều khía cạnh còn xa lạ đối với cộng đồng của họ, nhất là các quy phạm pháp luật ở trình độ khái quát cao sẽ khó thâm nhập vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống cộng đồng. Trong khi đó, phong tục, tập quán với những giá trị tích cực của nó lại có tác dụng thay thế cho pháp luật, đóng vai trò quan trọng và chủ yếu trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể, nhất là trong quá trình tự quản ở cộng đồng dân cư.
Phong tục, tập quán trong nhiều trường hợp còn có khả năng bổ sung làm phong phú cho pháp luật. Trong điều kiện một quốc gia có nhiều sắc tộc cùng sinh sống với trình độ phát triển khá chênh lệch nhau, với trình độ xây dựng luật pháp của các cơ quan nhà nước còn hạn chế, “chất lượng của các luật vẫn còn yếu và không đồng nhất, quá trình xây dựng các văn bản pháp quy chưa khuyến khích được sự tham gia ý kiến của các cơ quan nhà nước liên quan, các chuyên gia và các NGO (Tổ chức phi chính phủ) trong nước; các văn bản dưới luật không được chuẩn bị nhất quán với luật chính thức, các chính quyền địa phương đôi khi ban hành quá nhiều văn bản pháp quy dẫn đến sự phân tán quyền lực pháp lý, và các thủ tục hành chính quá cồng kềnh và quá chặt chẽ dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng”[13], chính điều đó làm cho pháp luật càng không thể điều chỉnh hết các tình huống xảy ra trong thực tiễn. Trong khi đó, mỗi bản, làng, xã, tộc người lại có một hệ thống phong tục, tập quán được đúc kết, sàng lọc qua nhiều thế hệ, là tinh hoa văn hóa dân tộc được kiểm nghiệm qua thực tiễn điều chỉnh các quan hệ trong nội bộ của bản, làng, xã, tộc người đó, và phần nào đã khẳng định được vai trò điều hòa xã hội để xây dựng, cố kết cộng đồng thì rõ ràng ở đây phong tục, tập quán sẽ bổ sung các quy định còn thiếu của pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật thực hiện được vai trò quản lý xã hội có hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu khách quan trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cộng đồng.
Phong tục, tập quán tồn tại, thay đổi hay mất đi do nhiều yếu tố khách quan tác động, trong đó có pháp luật. Pháp luật, với sức mạnh vốn có mà các quy phạm xã hội khác không có được, đã tác động mạnh mẽ đến phong tục, tập quán. Với nội dung tiến bộ, pháp luật sẽ ảnh hưởng tích cực tới phong tục, tập quán, tạo điều kiện cho phong tục, tập quán tốt đẹp phát triển, đồng thời hạn chế các phong tục, tập quán lạc hậu, cổ hủ. Trong trường hợp cần thiết, pháp luật còn hỗ trợ cho các phong tục, tập quán phát huy được vai trò của mình.
Mỗi loại quy phạm xã hội đều có vị trí, vai trò đặc thù trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Song, bao giờ chúng cũng nằm trong một thể chế thống nhất, bổ sung cho nhau. Pháp luật chỉ có hiệu lực thực sự trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội khi được người dân tiếp nhận và thi hành một cách tự nguyện, một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện điều đó là cần có sự hỗ trợ, bổ sung của phong tục, tập quán, đây là phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã hội, gắn bó với những điều kiện cụ thể của từng địa phương, của mỗi cộng đồng nhỏ, nên nó dễ hợp lòng người và thường được tuân thủ một cách tự giác.
Sự ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến pháp luật như là một hiện tượng có tính quy luật. Phong tục, tập quán lạc hậu, phản tiến bộ sẽ trở thành lực cản trong việc chấp hành pháp luật. Ngược lại, phong tục, tập quán tốt đẹp sẽ đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng tình đoàn kết nội bộ, giải quyết các tranh chấp bằng con đường hoà giải, giải quyết linh hoạt, kịp thời, có tình, có lý các mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư, phù hợp với điều kiện của từng địa phương bảo đảm ổn định trật tự xã hội và do vậy, sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật. Đây vừa là nguồn bổ sung, vừa là môi trường đưa pháp luật vào cuộc sống, đồng thời là chất liệu quý để hoàn thiện một nền pháp luật tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Việc ghi nhận và bảo vệ phong tục, tập quán tốt đẹp là một tất yếu khách quan trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.


[1] Nguyễn Đình Đặng Lục. Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách. Nxb Tư Pháp, H.2005, tr.69.
[2] Hoàng Thị Kim Quế. Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7, năm 1999, tr.10.
[3] Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh (chủ biên). Quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam, lịch sử và hiện tại. Nxb CTQG, H.2003, tr.103.
[4] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[5] Đoàn Văn Chúc. Xã hội văn hoá. Nxb Văn hoá-Thông tin, H.1997, tr.130.
[6] http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
[7] Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng, năm 1997, tr.742.
[8] Ngô Đức Thịnh, Phan Đăng Nhật (chủ biên). Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb CTQG, H.2000, tr.15.
[9] Toàn Ánh. Phong tục Việt Nam (Thờ cúng tổ tiên), Nxb KHXH, H.1991, tr.5.
[10] Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên). Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, H.2006, tr.71.
[11] Nguyễn Đình Đặng Lục., sđd, tr.70.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr.111.
[13] Vũ Duy Phú (chủ biên). Xã hội dân sự-Một số vấn đề chọn lọc, Nxb Tri thức, H.2008, tr.33.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét