Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

PHÁT HUY VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà Đảng ta còn khẳng định vai trò to lớn của mình đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao... tạo ra tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
 Toàn cảnh Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, góp phần củng cố lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự tổ chức, điều hành của Nhà nước. Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn như trên, nhưng do điểm xuất phát thấp, sự nghiệp đổi mới được bắt đầu khi nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, cộng thêm những yếu kém, khuyết điểm chủ quan, đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển, kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Cơ chế, chính sách kinh tế chưa đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển... việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; một số quan điểm, chủ trương chưa rõ và chưa có sự thống nhất, thông suốt trong nhận thức ở mọi cấp, mọi ngành; cải cách nền hành chính nhà nước tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, kém hiệu quả... Do vậy, trong điều kiện hiện nay, để Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN đạt hiệu quả cao, theo tôi phải đảm bảo các vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:
Một là, giải quyết hài hòa mối quan hệ chính trị và kinh tế trong công cuộc xây dựng CNXH.
Đổi mới kinh tế tạo cốt lõi vật chất cho việc bảo đảm định hướng XHCN, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, các cá nhân, các tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc. Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học-công nghệ. Mặt khác, đổi mới kinh tế còn là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội-chính trị của quá trình xây dựng CNXH. Chính KTTT định hướng XHCN đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển một tư duy chính trị năng động, cho việc hoàn thiện một thiết chế nhà nước gần dân, sát thực cuộc sống, cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội, của nhân dân. Tính năng động và bản chất dân chủ của KTTT định hướng XHCN đòi hỏi và tạo tiền đề vật chất kinh tế - xã hội cho tính năng động và dân chủ trong các thể chế chính trị.
Trước những yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong những năm tới, việc hoàn thiện sự lãnh đạo chính trị với kinh tế ở nước ta cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường; quán triệt và thực hiện tốt quan điểm hiệu quả, phát triển, đây là những tiêu chí hàng đầu làm thước đo, đánh giá tính hợp lý, đúng đắn của các quyết sách chính trị với kinh tế, tính ưu việt chính trị; bảo đảm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển; tôn trọng yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan; chính trị phải phát huy được các nguồn lực, các động lực phát triển kinh tế và kiểm soát những vấn đề then chốt của kinh tế như: vấn đề sở hữu, quản lý tài chính, ngân sách, phát triển cơ sở hạ tầng, các mối quan hệ tích luỹ-tiêu dùng, thành thị-nông thôn, lao động-việc làm...; cần phối hợp hoạt động giữa các nhà hoạt động chính trị với các nhà kinh doanh; quyền lực chính trị ở mỗi cấp lãnh đạo cần phải được tập trung, thống nhất; phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc và của cả hệ thống chính trị để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
          Hai là, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ.Nguyên tắc tập trung dân chủ “là sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong một mối quan hệ hữu cơ biện chứng, chứ không phải chỉ là tập trung hoặc chỉ là dân chủ. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Dân chủ không phải là “tính từ” của tập trung. Tuyệt đối hoá một mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm có hại đến sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng”, “nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện bảo đảm cho tổ chức đảng cố kết về mặt tổ chức, thống nhất ý chí, thống nhất hành động; đồng thời phải phát huy sáng kiến và tính tích cực sáng tạo của mọi đảng viên, mọi tổ chức đảng”[1]. Dân chủ trong Đảng phải có tính đảng, có lãnh đạo, gắn liền với kỷ luật Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức của Đảng để xây dựng Đảng thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức. Dân chủ và tập trung là hai mặt của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tự do vô chính phủ, tính phân tán, cát cứ, cục bộ địa phương và thói phường hội. Dân chủ không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể thực hiện được hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng.
Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo công cuộc đổi mới trong điều kiện cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, có rất nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp. Nhất là khi giao thông liên lạc thuận tiện, điều kiện tiếp cận thông tin rộng rãi và nhanh chóng, trình độ kiến thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao, thì vấn đề thực hiện dân chủ trong Đảng lại càng có ý nghĩa quan trọng. Điều đó đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo và đi tiên phong trong công cuộc đổi mới và bản thân Đảng luôn luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức để thích ứng với nền kinh tế và cơ chế đó. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong một cách đúng đắn và hiệu quả, cần phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế đảm bảo thực hiện nội dung đó. Như vậy, ngoài việc phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, điều quyết định, cái bảo đảm thực hiện trong thực tế là phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó.
Ba là, bảo đảm sự phù hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách cán bộ.          Những thành công và thất bại của Đảng ta trong lãnh đạo kinh tế nhiều năm qua đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa chính sách kinh tế và chính sách cán bộ. Cán bộ ở cấp lãnh đạo cao thì tài năng chủ yếu thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề chiến lược. Cán bộ cơ sở và sát cơ sở thì tài năng chủ yếu ở việc giải quyết những vấn đề chiến thuật hằng ngày. Bố trí sai cán bộ cấp chiến lược và cấp chiến thuật, có thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến không thành công trong lãnh đạo kinh tế. Lựa chọn, đào tạo và bố trí đúng những cán bộ trung thực và tài năng là yêu cầu cao của lãnh đạo kinh tế trong điều kiện đổi mới hiện nay.
Do đó, trước yêu cầu ngày càng cao của việc phát triển kinh tế-xã hội, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là đội ngũ tiên phong trong sự nghiệp mới, mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là hạt nhân lãnh đạo, là tấm gương có sức lôi cuốn, tập hợp nhân dân trong tiến trình thực hiện các mục tiêu của đổi mới kinh tế, Đảng ta xác định: “cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân”[2].Bốn là, bảo đảm sự phù hợp giữa chính sách kinh tế đối nội và đối ngoại.          Lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, phát triển kinh tế-xã hội theo hướng hiện đại, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khoa học-công nghệ phát triển như vũ bão, xu thế toàn cầu hoá kinh tế, sự liên kết và phân công lao động quốc tế đã phát triển sâu rộng, thì chính sách kinh tế đối ngoại trở thành một trong những nhân tố quan trọng của sự nghiệp phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Vì thế cần phải tiếp tục “đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đẩy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”[3]. Đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với khoảng 172 nước, vùng lãnh thổ trên tất cả các châu lục; quan hệ kinh tế thương mại với trên 100 quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế lớn.
Với tư cách là người đại diện duy nhất của quốc gia, dân tộc Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam giữ vai trò quyết định việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế hiện nay. Vai trò mở rộng quan hệ đối ngoại của Nhà nước thể hiện trên các vấn đề chủ yếu: đây là cơ quan hành chính cao nhất quán triệt và tổ chức thực hiện mục tiêu, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng; đây là cơ quan thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại của quốc gia từ trung ương đến địa phương, của các bộ, ngành và các tổ chức chính trị-xã hội, thông qua hệ thống chính trị nói chung và hệ thống cơ quan đối ngoại nói riêng; đây là cơ quan hành chính cao nhất trong hệ thống chính trị quyết định, định hướng chính sách, lựa chọn đối tác, phương thức, nội dung, đánh giá hiệu quả của việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế nhằm phát triển kinh tế-xã hội trong nước và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong công tác đối ngoại phải “bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, coi đó là lợi ích cao nhất, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng thực tế của ta. Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tự đẩy mình vào thế cô lập. Tăng cường hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó coi trọng quan hệ với nước lớn; chủ động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu. Kết hợp đối ngoại của Đảng, đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân…”[4]. Chính sách kinh tế đối ngoại chỉ có hiệu quả khi kết hợp với chính sách kinh tế đối nội thành một hệ thống nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội đã đặt ra. Sự kết hợp chính sách kinh tế đối nội và chính sách kinh tế đối ngoại được thực hiện ngay từ khi soạn thảo đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế và quá trình thực hiện.
Năm là, đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn trong tiến trình phát triển kinh tế-xã hội.Xây dựng Đảng phải tiến hành trên cả hai mặt đổi mới và chỉnh đốn Đảng: Đổi mới là từ bỏ những gì lạc hậu, lỗi thời hay sai trái để đi đến những cái mới, đúng đắn hơn, tiến bộ hơn. Còn chỉnh đốn là sắp xếp lại những gì vốn có trước kia đến nay vẫn đúng nhưng đã bị làm sai lệch. Đổi mới và chỉnh đốn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉnh đốn là tiền đề cho đổi mới, đổi mới là đem lại cho Đảng một chất lượng mới, một tầm cao mới, một bước phát triển mới, đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, vì không ai có thể làm thay cho Đảng, nếu Đảng không thấy trước hết đó là công việc của chính mình. Việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng phải thường xuyên, lâu dài là do sự nghiệp xây dựng CNXH càng được triển khai, công cuộc đổi mới đất nước càng được đẩy mạnh, nhiều vấn đề mới lại được đặt ra, càng đòi hỏi Đảng phải vượt lên phía trước để không rơi vào tình trạng bất cập; hơn nữa, phải kịp thời ngăn chặn những suy thoái, biến chất có thể xảy ra trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải thường xuyên, lâu dài còn do việc đổi mới, chỉnh đốn là hết sức khó khăn.
Thực tiễn đổi mới của nước ta trong hơn 20 năm qua đã chứng minh Đảng ta vận động theo quy luật Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Trong xây dựng Đảng, những thành tựu đạt được đều bắt nguồn từ việc tích cực đổi mới, chỉnh đốn Đảng; ngược lại, những hạn chế, yếu kém đều do đổi mới, chỉnh đốn Đảng quá chậm chạp, không đến nơi, không kiên quyết, không triệt để. Chính vì thế, nhiệm vụ quan trọng là tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, trong đó có việc chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ, kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, đổi mới tổ chức, bộ máy công tác cán bộ và đặc biệt là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Khâu mấu chốt ở đây là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở tất cả các cấp, từ trung ương đến cơ sở. “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hoá, cụ thể hoá thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của Nhà nước; bố trí đúng cán bộ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện”[5].
Trong vấn đề tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng còn nhiều nội dung khác như công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng chống tham nhũng, lãng phí, công tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, công tác quần chúng. Tất cả các nội dung này có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều cực kỳ quan trọng trong việc làm cho Đảng ngày một vững mạnh hơn, vì vậy cần được thực hiện đồng bộ. Mặc dù vậy, chúng tôi cho rằng, cần quan tâm đặc biệt đến hai khâu then chốt nhưng lại đang khá bức xúc cần tự đổi mới và chỉnh đốn sớm để làm chỗ dựa cho các khâu khác chính là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Tóm lại, cách mạng muốn thành công phải có Đảng mácxít chân chính lãnh đạo. Bài học về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là bài học mang tính tổng hợp của tất cả các bài học. Chỉ khi nào đường lối, chủ trương chiến lược, sách lược của Đảng đúng đắn, sáng tạo thì chúng ta mới đi đến thành công. Thực vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với việc phát triển kinh tế-xã hội nước ta hơn 20 năm qua đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo về đường lối, chủ trương của Đảng-khẳng định Đảng là nhân tố quan trọng nhất trong hệ thống chính trị nước ta, là tổ chức chính trị duy nhất có thể lãnh đạo công cuộc đổi mới đi tới thành công. Đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo đất nước, bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội, kết hợp hài hoà với phát triển kinh tế, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại và kinh tế đối nội, bảo đảm sự phù hợp giữa chính sách kinh tế với chính sách cán bộ, đặc biệt Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.


[1] GS, TS, Nguyễn Phú Trọng, Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội 2005, tr.302.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 136.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.113-114.[4] Hoàng Đức Nhuận, Nguyễn Quang Phát (chủ biên), Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, Nxb QĐND, Hà Nội, 2007, tr.178-179.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.137-138.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét