Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

TIẾP TỤC NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC


Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... mà nổi bật là năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng cao trong việc hoạch định đường lối, chính sách; trong tổ chức chỉ đạo thực hiện; khả năng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; đã lãnh đạo tốt Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời đã nâng cao sức chiến đấu của Đảng, làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng, có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Khẳng định những kết quả trên, trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước...”[1].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thì trên thực tế “năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội. Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này”[2]. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn do những hạn chế, yếu kém trong công tác tư tưởng chính trị, công  tác vận động quần chúng, công tác tổ chức  cán  bộ, công tác quản  lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế - xã  hội. Một bộ phận  không  nhỏ cán bộ, đảng  viên,  kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu  kém  cả về phẩm  chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần  bảo vệ  quan điểm,  đường  lối, chính sách của Đảng,  giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng.
Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện có hiệu quả việc tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đòi hỏi chúng ta phải tập trung giải quyết tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Trước hết, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn tạo sự thống nhất nhận thức và hành  động trong Đảng
Thực tiễn xã hội luôn vận động, biến đổi và phát triển nó luôn đòi hỏi nhân tố chủ quan phải không ngừng vươn lên hoàn thiện mình, muốn vậy cần xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, Đảng ta chủ trương: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Khẩn trương ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước...”[3].
Để thực hiện được điều đó, Đảng cần phải không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao trí tuệ - đây là trí tuệ tổng hợp của mỗi đảng viên của Đảng, là trình độ lãnh đạo, nghệ thuật và khả năng quy tụ trí tuệ của toàn dân tộc, kể cả những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Đảng phải coi đây là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bảo đảm cho việc xây dựng đường lối và chủ trương đúng đắn, khoa học, định hướng cho sự phát triển của đất nước, kịp thời giải quyết những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đảng cần mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục những vấn đề lý luận  và thực tiễn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi cán bộ, đảng  viên  phải nêu cao tinh thần cảnh giác, nhạy cảm nắm  bắt tình hình, kịp thời tiến công đập tan mọi luận điệu phản tuyên  truyền của địch. Đặc biệt, cần tập trung làm tốt việc thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm  theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá, kiểm điểm, rút kinh nghiệm, động viên, khen thưởng kịp thời. Làm tốt công tác nêu gương điển hình tiên tiến. Cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên và đảng viên phải gương mẫu trong lời nói và hành động, làm gương cho cấp dưới và quần chúng nhân dân.
Thứ hai, đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước
Để hoàn thành tốt việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đảng không chỉ phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức…, mà còn phải có phương thức lãnh đạo khoa học, cho phép Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến  lược, các định hướng  về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, động viên, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên,... bảo đảm vừa nâng  cao vai trò lãnh  đạo của Đảng, vừa phát huy tính chủ động,  sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thắt  chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, cần “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước...”[4].
Có thể nói, sự thành công hay không của sự nghiệp CNH, HĐH những năm tiếp theo tùy thuộc một phần cơ bản và quan trọng vào việc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng. Bởi lẽ, phương thức lãnh đạo là cách thức, phương pháp, bước đi để thực hiện nhiệm vụ, nội dung lãnh đạo, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho đường lối đi vào cuộc sống thông qua phong trào hành động cách mạng của đông đảo nhân dân lao động, dưới ngọn cờ của Đảng. Trong quá trình đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng,  trước hết, cần tiếp tục nắm chắc và quán triệt hơn nữa một số vấn đề về nguyên tắc đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,  hội nhập kinh tế quốc tế và không ngừng hoàn thiện cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.
Thứ ba, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn liền với nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực tế cho thấy, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới, phải thật sự mở rộngvà phát huy dân chủ trong Đảng, làm cơ sở để mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội; phải dựa vào dân và phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên càng cao sẽ làm cho quần chúng nhân dân gắn bó với Đảng và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng cao chính là nguồn cung cấp những cán bộ tốt cho Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội ở các cấp.
Để làm được điều đó, Đảng phải coi “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng...”[5].  nhanh chóng “Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên”[6]. Đồng thời, thường xuyên và kịp thời uốn nắn những  nhận  thức lệch lạc, những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng.
Cán bộ, đảng viên phải nêu gương mẫu trong quần chúng và giáo dục, thuyết phục  gia đình gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Để nâng cao chất lượng đảng viên, một mặt phải rèn luyện qua thực tiễn thực hiện các chủ trương, chính sách của  Đảng,  pháp  luật Nhà nước và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị cụ thể ở cơ sở. Qua đó, giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống và năng lực tổ chức thực hiện của đảng viên. Mặt khác, phải coi trọng việc giáo dục lý luận, đường lối, chính sách của Đảng, nâng  cao trình độ kiến thức và quản lý kinh tế và nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên đã được  phân công. Đồng thời,  qua việc nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm  túc mà giáo dục, rèn luyện  đội ngũ đảng viên; xây dựng và thực hiện tốt chế độ kiểm  tra giám sát của quần chúng góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng  viên. Những  cán bộ, đảng viên  nào thoái hoá biến  chất  về chính trị, đạo đức, lối  sống, tham nhũng, gây bè phái, chia rẽ đã được kiểm tra, xem xét và có kết luận rõ ràng vi phạm về điều lệ Đảng,  pháp luật của Nhà nước phải kịp thời đề nghị thi hành kỷ luật nghiêm  minh theo đúng luật pháp,  để làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng  viên.  Đối với  những  đảng  viên  nào không  thiết tha với Đảng, giảm sút ý chí, thực sự không  có tác dụng đối với công  tác của Đảng, phải đưa ra khỏi Đảng  bằng các hình thức thích hợp. Việc kết nạp đảng viên mới phải đảm  bảo đúng tiêu chuẩn  theo điều lệ Đảng  và quy định, chú trọng đến chất lượng đội ngũ đảng  viên.
Thứ tư, củng cố tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN..., có những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục tăng cường mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân, cụ thể là phải dựa vào dân để xây dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc tham gia xây dựng Đảng. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm: “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[7]. Điều đó đòi hỏi, cần phải tôn trọng và phát huy quyền  làm  chủ của nhân dân lao động trong các lĩnh vực đời sống  xã hội theo phương châm “Dân  biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm  tra”; tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân; mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân, đem lại lợi ích thực tế cho các tầng lớp nhân dân... đây là những yếu tố cơ bản để gắn bó chặt chẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với quá trình xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, Ðảng ta luôn coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Ðảng. Ðảng ta khẳng định: kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Ðảng, lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không có lãnh đạo. Trong đó cần tập trung vào các vấn đề như: Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; kiểm tra, giám sát việc tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao... Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Chính phủ, công tác giám sát của Quốc hội và các cơ quan hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của mỗi cơ quan.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng  mới có độc lập dân tộc vững chắc, có quyền  làm chủ thực sự của nhân  dân, có nhà nước của dân, do dân, vì dân theo đúng nghĩa và nhất  là có chủ nghĩa    hội. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo và  sức chiến  đấu của Đảng  gắn với  việc thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm  theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là nhiệm  vụ cơ bản và cấp bách hiện  nay, bảo đảm  cho Đảng ta  thực sự là  đảng cách mạng chân chính, là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động  và của dân tộc./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.163.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., H.2011, tr.174.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., H.2011, tr.255-256.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., H.2011, tr.264.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd.,  H.2011, tr.257-258.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd.,  H.2011, tr.260.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd.,  H.2011, tr.65.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét