Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY


Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước cũng như hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều phải hoạt động, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật, phải sống và làm việc theo pháp luật.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên. Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lý, điều hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường) được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu có kết quả...
Tuy nhiên, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước, “năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân”[1]. Cùng với đó, năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đang trở thành vấn đề thời sự cấp bách. Bởi vì nhà nước luôn là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”; đồng thời, là vấn đề “rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ hệ thống chính trị”[2]. Do đó, việc đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN cần tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền XHCN.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng hướng XHCN. Điều này đòi hỏi phải gắn liền với đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm cả đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo. “Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”[3].
 Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ vững kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Thực hiện nội dung này là để giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước ta trong quá trình đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước. Đổi mới, cải cách nhưng không làm biến dạng bộ máy nhà nước.
Đối với nhà nước ta tính chất giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân là do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước; “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc”, “chở thuyền, lật thuyền đều là dân”, “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”…
Để thực hiện nội dung này cần quán triệt tốt một số nguyên tắc căn bản đó là: Nhà nước ta là nhà nước do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra và giám sát. Nhà nước ta hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân. Mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc đó cần được phê phán một cách triệt để. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo  rằng: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân…”[4].
Hai là, thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đây vừa là nội dung có tính chất chỉ đạo quá trình xây dựng bộ máy nhà nước ta, vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó. Thực chất quan điểm này thể hiện ở chỗ: Hoạt động của nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền như trong chính thể nhà nước cộng hoà tư sản khác, mà thực hiện nguyên tắc quyền lực thống nhất, quyền lực đó thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện quyền lực nhà nước. Quyền lực thống nhất không có nghĩa là không có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan này tuy có chức năng quyền hạn riêng, song giữa chúng có quan hệ phụ thuộc, chi phối lẫn nhau đảm bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước và phân công, phối hợp chặt chẽ ba quyền đó. Đại hội lần thứ XI đã xác định, cần phải tiếp tục “nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[5].
Ba là, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
Tăng cường pháp chế XHCN chính là cái đảm bảo cho nhà nước ta giữ vững bản chất giai cấp, quyền lực nhà nước thống nhất và tập trung ở nơi nhân dân và nguyên tắc tập trung dân chủ mới trở thành hiện thực. Với bản Hiến pháp được thông qua, hệ thống pháp luật ở nước ta trên thực tế đã trải qua bốn giai đoạn phát triển và cải cách. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò của pháp luật được thể hiện ở những mức độ khác nhau nhưng ở mọi thời kỳ, pháp luật luôn là một trong những công cụ quan trọng để nhà nước quản lý xã hội, củng cố kỷ cương và tăng cường dân chủ.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội. Tăng cường pháp chế XHCN phải được tiến hành một cách đồng bộ trên cả ba mặt: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Vì vậy, tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, thực hiện tích cực các quy định của pháp luật, sống và làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi khách quan đối với mọi công dân. Bên cạnh đó, nhà nước phải coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng. Đây chính là nét đặc sắc trong tư tưởng văn hóa pháp lý truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử. Để thực hiện thắng lợi nội dung trên trước mắt cần tập trung thực hiện tốt một số phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; cải cách nền hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng…
Bốn là, tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, “tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho các ngành, các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Chú trọng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí”[6].
Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Hoàn thiện các quy định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu, sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Xây dựng chế tài xử lý những tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng phí lớn tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đồng thời kỷ luật nghiêm những người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ. Tôn vinh những tấm gương liêm chính. Tổng kết, đánh giá cơ chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 171-172.
[2] V.I. Lênin. Toàn tập, t.39. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 75, 76.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 144.
[4] Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, t. 4, tr. 56.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 252.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.. 253.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét