Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”[1]. Quan niệm về đời sống mới ở mỗi gia đình, Bác nói: “Về tinh thần, thì phải trên thuận, dưới hòa, không thiên tư, thiên ái. Bỏ thói mẹ chồng hành ha nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm, phải ăn đều, tiêu sòng. Có kế hoạch, có ngăn nắp”[2]. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: “Cấm: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi... Cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con dâu... Trong gia đình vợ chồng bình đẳng về mọi mặt... Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ... xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc.... Gia đình là hạt nhân của xã hội. Mọi gia đình đều đoàn kết cộng lại thành xã hội đại đoàn kết”[3].
Lịch sử đã chứng minh, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, trong điều kiện nước ta đang phát triển và đi lên trong xu thế hội nhập, Đảng ta cũng đặc biệt chú trọng đến vai trò của gia đình. Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[4]. Còn trong Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục chủ trương: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng...; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình... làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc... Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”[5]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng cũng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách[6].
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá, cụm dân cư văn hoá, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt là trong 10 năm qua, kể từ ngày Đảng và Nhà nước ta quyết định lấy ngày 28/6 hằng năm là “Ngày Gia đình Việt Nam”, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở các địa phương trong cả nước ngày càng phát triển về chiều rộng và bề sâu. Thu hút trên 90% gia đình sinh sống ở nông thôn, hoặc gia đình cư trú trên địa bàn khu dân cư tham gia. Nếu như năm 2000, cả nước mới có gần 8,7 triệu gia đình văn hóa thì đến năm 2010, con số này là hơn 16 triệu hộ. Cả nước đã có trên 1,2 triệu “người tốt, việc tốt” được suy tôn (tăng 2,4 lần). Bên cạnh đó, năm 2000 chỉ có 17.651 làng, tổ dân phố văn hóa trên cả nước được công nhận thì đến nay đã có đến 58.284 làng, tổ dân phố văn hóa. Hiện cả nước có trên 120.000 đơn vị và khu dân cư thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Từ khi phát động phong trào đến nay, việc tổ chức lễ hội đã được tiến hành chặt chẽ nên nạn cờ bạc, cá độ giảm 60%, hoạt động mê tín, dị đoan giảm 59%, tổ chức tràn lan, lãng phí giảm 47%. Nhờ đó, thiết chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng được duy trì và phát triển. Các nội dung văn hóa gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng phát triển đa dạng.
Trong giai đoạn 2008-2010, cả nước giảm 70% số vụ bạo lực gia đình. “Mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình” được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch triển khai từ tháng 8.2008 tại 75 xã, phường thuộc 63 tỉnh, thành phố. Sau ba năm thực hiện mô hình, cả nước có khoảng 2.500 câu lạc bộ “Xây dựng phát triển gia đình bền vững” với 525.000 hộ gia đình tham gia; 320 nhóm “Phòng, chống bạo lực gia đình” với 1.600 thành viên; tổ chức 3 đợt tập huấn về mô hình cho 189 cán bộ tuyến tỉnh và 192 đợt cho 7.680 cán bộ tuyến xã. Tổng số vụ bạo lực gia đình tại các xã triển khai năm sau giảm 50% so với năm trước (từ 1.071 vụ vào năm 2008 xuống còn 525 vào năm 2009 và 283 vụ vào năm 2010). Việc hình thành các tổ, nhóm, câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình tại các xã thí điểm sẽ giúp các địa phương trong việc nhân rộng mô hình ra toàn tỉnh. Đến thời điểm hiện tại, đã có 44/63 tỉnh, thành có kế hoạch nhân rộng mô hình trong giai đoạn 2011 - 2015, với số kinh phí khoảng 40 tỉ đồng.
Xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự trở thành môi trường giáo dục quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần của các thành viên trong gia đình; đơn vị trực tiếp và trọng yếu thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng. Trên 16.000 gia đình văn hóa đã làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa, mở mang ngành, nghề, thu hút và tạo việc làm cho hàng vạn lao động ở nông thôn. Từ phong trào “Xây dựng Gia đình văn hóa”, nhất là từ những tấm gương của các Gia đình văn hóa tiêu biểu đã phát huy được sự tự chủ, sáng tạo của nhân dân trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí lao động, tổ chức sản xuất, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương, góp phần mạnh mẽ vào việc mở mang ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với nhu cầu thị trường. Vì vậy, số hộ khá, hộ giàu ngày càng tăng, số hộ đói nghèo, nhất là hộ nghèo ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa giảm hẳn. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, các gia đình văn hóa luôn quan tâm nâng cao chất lượng cuộc sống, gia đình hòa thuận, hạnh phúc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Quyền trẻ em đã được pháp luật thừa nhận, được xã hội và gia đình thực hiện và phát huy. Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện để thực hiện hôn nhân bình đẳng và tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang làm cho xã hội lo lắng. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, mại dâm và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình. Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng phát triển.
Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam (Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 4.838 phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi, đại diện cho nữ giới thuộc độ tuổi này ở Việt Nam. 90 cuộc phỏng vấn chuyên sâu và 4 cuộc thảo luận nhóm cũng đã được tiến hành tại Hà Nội, Huế và Bến Tre) được Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010, cứ ba phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người (34 phần trăm) cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9 phần trăm. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng – thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58 phần trăm) phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42 phần trăm phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực, nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động từ 8 phần trăm (người H’Mong) đến 36 phần trăm (người Kinh). 
Cùng với đó, nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau gần ba chục năm qua vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xoá đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa theo kịp sự phát triển của đất nước; những mặt tích cực của gia đình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được phát huy. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được xử lý kịp thời. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chưa quan tâm đúng mức việc nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình. Công tác giáo dục trước và sau hôn nhân, việc cung cấp các kiến thức làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được coi trọng. Nhiều gia đình do quá tập trung làm kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế tạo nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ tiếp tục tác động vào số đông các gia đình. Nhiều gia đình nếu không được hỗ trợ, không được chuẩn bị đầy đủ sẽ không đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội và không làm tròn các chức năng vốn có của mình. Xu thế thu nhỏ gia đình trong xã hội công nghiệp nếu không được định hướng sẽ tiếp tục gây sức ép về nhà ở cũng như đặt việc chăm sóc trẻ em và người cao tuổi vào một thách thức mới.
Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, những khó khăn và thách thức nêu trên sẽ tiếp tục làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để góp phần giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Tiếp tục giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển. Từ đó, đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên gia đình. Bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện các văn bản luật, các chủ trương chính sách về xây dựng gia đình. Để công tác xây dựng văn hoá gia đình trong thời kỳ mới phát huy hiệu quả, rất cần có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ chính quyền ở địa phương. Quy chế xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư cần được thực hiện đồng bộ, sáng tạo, thiết thực. Theo đó, quá trình xét và công nhận gia đình văn hoá, làng văn hoá cần dựa trên những tiêu chí cụ thể, sát thực và phải được tiến hành nghiêm túc, tránh hình thức, chiếu lệ. Đặc biệt cần chống căn bệnh thành tích đang ăn sâu vào nếp nghĩ của nhiều cán bộ lãnh đạo các địa phương.
Đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hoá công tác truyền thông, tăng cường phổ biến, giáo dục để cả hệ thống chính trị, các đoàn thể, tổ chức và mọi công dân, mọi thành viên gia đình thấm nhuần chiến lược xây dựng và phát triển gia đình, Luật Hôn nhân Gia đình, quyền trẻ em và bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân số; đưa chủ đề gia đình vào các chương trình tuyên truyền, nêu gương người tốt việc tốt và phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng cuộc sống gia đình. Trên cơ sở luật pháp của Nhà nước, các cơ quan chức năng cần vận dụng sáng tạo nhằm cụ thể hoá các văn bản, các quy định phù hợp với điều kiện gia đình ở địa phương theo hướng đề cao nhân tố gia đình văn hoá tiêu biểu; có chế tài đủ hiệu lực để răn đe những hành vi vi phạm làm băng hoại hiếu thuận, lễ nghĩa trong gia đình mà các điều khoản luật pháp mới chỉ xác định ở định tính; hướng dẫn các biện pháp cụ thể, mang tính cộng đồng nhằm ngăn chặn có hiệu quả và đấu tranh mạnh mẽ loại trừ các hủ tục trong đời sống xã hội và các tệ nạn đang diễn ra trong đời sống gia đình.
Những mô hình về gia đình văn hoá, những tấm gương cha mẹ nuôi dạy con cái ngoan ngoãn, giỏi giang hay con cháu lễ nghĩa hiếu thuận với ông bà, cha mẹ cần được nhân rộng phổ biến. Những cách hành xử phù hợp, những bài học về mối quan hệ yêu thương, đùm bọc giữa các thành viên trong gia đình sẽ là hành trang quan trọng để mỗi người có thể giải quyết được những tình huống khó khăn trong cuộc sống.  Đặc biệt, các cặp vợ chồng trẻ cần cập nhật, tìm hiểu kỹ luật hôn nhân và gia đình để từ đó, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người trong việc vun vén xây dựng cho tổ ấm của mình. Công tác tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân rất cần sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ…
Đặc biệt, nhìn về lâu dài, phải có chương trình giáo dục văn hoá gia đình cho học sinh, bởi đây là những chủ thể, hạt nhân của các gia đình trong tương lai. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, giới trẻ cần được trang bị những kiến thức nền tảng về văn hoá gia đình.  Xây dựng mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa gia đình - nhà trường và các tổ chức xã hội để có sự thống nhất, đồng thuận trong thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em. Xã hội cần hỗ trợ các bậc cha, mẹ để họ có những phương pháp, biện pháp, nội dung giáo dục mới phù hợp với sự thay đổi những giá trị mới của gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, bảo đảm đủ nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Đưa nội dung công tác này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các kế hoạch hàng năm của ngành và của địa phương. Củng cố và ổn định cơ quan uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp cơ sở, đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và phối hợp liên ngành về công tác gia đình.
Có chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo việc làm, tăng thu nhập, nhất là tạo việc làm tại chỗ, nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của gia đình. Cùng với đó, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình và cộng đồng, tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình nghèo, vùng ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; có chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai, gia đình neo đơn tàn tật... Đồng thời, quan tâm tới các gia đình đã nhường đất sản xuất cho đô thị hoá, phát triển công nghiệp và các hộ di dân; triển khai và mở rộng các loại hình dịch vụ an sinh xã hội để nâng cao năng lực tự chủ của mỗi gia đình, đảm bảo cho các gia đình có cơ hội tiếp cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm sóc người cao tuổi. Xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện thoái hóa, biến chất về đạo đức, những tệ nạn xã hội, tham nhũng, lãng phí và lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền. Cùng với đó, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia đình, đặc biệt là nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình cần gìn giữ, phát huy, những giá trị mới, tiên tiến cần tiếp thu; nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; áp dụng các kết quả nghiên cứu để giải quyết những thách thức trong lĩnh vực gia đình và dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới.
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới, nó là tổ ấm tràn đầy tình yêu thương nuôi dưỡng mỗi con người lớn lên và trưởng thành… Chính vì thế, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá của gia đình.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, T.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.523.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.100.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.661-662.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.103-104.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.223.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.77.

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1945, GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ THỜI ĐẠI

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử 65 năm qua, Tuyên ngôn Độc lập vẫn như ngày nào, vang vọng khắp non sông, là ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách của dân tộc ta trong thời đại mới. Bản Tuyên ngôn bất hủ này mãi đi cùng lịch sử dân tộc Việt Nam ta không chỉ với tư cách một áng văn lập quốc vĩ đại, một kiệt tác về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn với tư cách là bản tổng kết những giá trị tinh thần của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc ta, nhân dân ta; đồng thời cũng là lời Tuyên ngôn mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Khẳng định các quyền cơ bản của con người: Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố về quyền lựa chọn con đường độc lập, tự do của mỗi dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[1], và quyền được sống, được tồn tại, được mưu cầu hạnh phúc của mỗi dân tộc, con người: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”[2]. Điều này khác với độc lập dân tộc giành được theo con đường cách mạng dân chủ tư sản, ở đây, độc lập dân tộc gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động.
Là sự khẳng định quyền bất khả xâm phạm của dân tộc: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới chính là sự kế thừa có sáng tạo để nâng lên tầm cao mới quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc – “Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[3]. Vì những quyền thiêng liêng nhất ấy mà cả dân tộc ta, hết thảy mọi người dân nước Việt “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[4] và cho “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, dân tộc Việt Nam cũng “kiên quyết giành cho được độc lập”, cũng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, quyết tâm thực hiện bằng được độc lập, thống nhất trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước, thực hiện quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới, khẳng định quyền thực sự làm chủ đất nước của mọi người dân nước Việt và nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường, không bao giờ cam tâm làm nô lệ của dân tộc ta, nhân dân ta.
Khẳng định ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của con người, dân tộc Việt Nam: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn thể hiện sâu sắc truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường mà dân tộc ta đã hun đúc nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không phải một lần đối đầu với những thách thức khốc liệt và phải tự mình lựa chọn hoặc là “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, chấp nhận hy sinh, mất mát cho dù có to lớn đến đâu chăng nữa, kể cả tính mạng, xương máu, kể cả phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để giữ vững quyền tự do, độc lập cho dân tộc, hoặc là chịu sự đồng hóa, nô dịch để rồi đi đến chỗ diệt vong.
Lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đoàn kết, anh dũng nhất tề đứng dậy giành chính quyền, “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm… để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[5]. Bởi vậy, nước Việt Nam mới (VNDCCH) hoàn toàn có quyền “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Và, thế giới “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”, bởi “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm…, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít…, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[6].
Chính vì thế, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Rằng, “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[7]. Bản tuyên ngôn này khẳng định nền độc lập, tự do của dân tộc là điều kiện đầu tiên, bao trùm và tiên quyết cho việc tạo dựng các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân ta.
Mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại đương đại – thời kỳ các nước thuộc địa và nửa thuộc địa vùng lên giành độc lập, làm tan rã chế độ thực dân cũ, đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội theo con đường quá độ. Đồng thời, khẳng định quyền dân tộc, đó là sự độc lập về chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ. Độc lập cho dân tộc mà Người khẳng định ở đây là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn của một dân tộc. Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… và toàn vẹn lãnh thổ.
Nền độc lập đó phải được thực hiện một cách triệt để mà theo đó, nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nền độc lập đó chỉ có ý nghĩa và giá trị thực sự, khi nó được thể hiện bằng quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. Dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ và hạnh phúc, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành không chỉ là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định khi trịnh trọng tuyên bố với thế giới Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới, mà còn là hoài bão, là lý tưởng, là ham muốn tột bậc, suốt đời của Người.
Khẳng định tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn phản ánh tinh thần đoàn kết, đồng tâm, nhất trí, cố kết dân tộc để tạo nên sức mạnh cộng đồng và khát vọng vươn tới tự khẳng định mình với tư cách một dân tộc, một quốc gia có chủ quyền với lòng tự tôn, tự hào chính đáng... đã trở thành một giá trị tinh thần mang sức mạnh vật chất, có sức lôi cuốn, cổ vũ và nuôi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau, dù trong máu lửa, đạn bom, dù có phải hy sinh cả tính mạng vẫn không chịu đánh mất mình với tư cách một dân tộc độc lập, không chấp nhận “trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác”. Tinh thần, khí phách không những không hề bị mai một, mà càng được tôi luyện, hun đúc và nhân lên sức mạnh vốn có của nó một cách mạnh mẽ, nhờ đó, chúng ta đã “dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bóc trần bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của những kẻ nhân danh “lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” để áp bức, bóc lột các dân tộc khác, can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của nước khác. Đây là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi, khi mà giờ đây, các thế lực phản động quốc tế vẫn tiếp tục chiêu bài cũ và nhân danh quyền con người, ủng hộ dân chủ để thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, can thiệp thô bạo và tinh vi vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc đang trên con đường phát triển trong độc lập, tự chủ. Chính vì vậy mà giờ đây, đối với chúng ta, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và bình đẳng, tiến bộ và công bằng xã hội mà Tuyên ngôn độc lập đã trịnh trọng tuyên bố lại càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Là nền tảng chính trị - pháp lý của nước Việt Nam mới. Trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế. Các quyền dân tộc cơ bản, quyền con người thiêng liêng, bất khả xâm phạm được tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập không chỉ là những giá trị bất hủ dành riêng cho dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam, mà còn là những giá trị bất hủ dành cho mọi dân tộc, cho cả nhân loại. Hướng đến các quyền đó là xu thế tất yếu của mọi dân tộc, của tất cả mọi người trong cộng đồng nhân loại ở thời đại ngày nay.
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn là một kiệt tác về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, nhà hiền triết của thời đại chúng ta. Không chỉ thế, Tuyên ngôn này còn thể hiện tình cảm yêu nước nồng nàn, lòng tự hào với truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam vốn đã in đậm dấu ấn ở Hồ Chí Minh. Ý chí sắt đá trong bản hùng văn này, độ nhạy cảm, tinh tế về chính trị, sự am hiểu sâu sắc về nền văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, tính nhân đạo và nhân văn trong lối sống, trong phong cách ứng xử, cộng với trí tuệ sắc sảo trong tư duy và tài hành văn, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đến độ tinh tế, trong sáng và uyển chuyển của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại cho Tuyên ngôn độc lập quyền mãi trường tồn cùng thời gian không chỉ với tư cách một văn bản chính trị, một bản Tuyên ngôn lập quốc, mà còn với tư cách nỗi niềm sâu lắng của một dân tộc mới hồi sinh và thực sự đã hồi sinh, là tiếng nói từ đáy lòng của một anh hùng dân tộc suốt đời phấn đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 1.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 1.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 469.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 480.
[5] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 3.
[6] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 3.
[7] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 4.

PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG


Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là sức mạnh nội lực của dân tộc ta được đúc rút và chứng minh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ xưa tới nay, với tư tưởng lấy dân làm gốc, khoan dung, hòa hợp, tinh thần đoàn kết, yêu nước, vị tha, nhân ái... làm trọng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành ngọn cờ đại nghĩa, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh vô địch để chiến thắng địch họa. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước hiện nay, bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Và một trong những phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta xác định là: “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”[2].
Chính vì thế, trong thời gian qua, mặc dù tình hình thế giới, khu vực có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp. Nhân dân ta phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của kinh tế thế giới cũng như khó khăn nội tại của kinh tế nước ta... Song, bằng bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thắng lợi quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, y tế, giáo dục... Điều này có tác động tích cực đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đánh giá kết quả này, Đảng ta khẳng định: “Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước”[3].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình chính trị thế giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với phong trào cách mạng đấu tranh vì hoàn bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội nên việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết cũng đặt ra nhiều vấn đề mới. Đặc biệt, trong nước, có lúc, có nơi vẫn còn sự mất đoàn kết, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân về những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện những mục tiêu chung của đất nước, cũng như cản trở việc thực hiện những lợi ích riêng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là các giai cấp, tầng lớp lao động cơ bản của xã hội là công nhân, nông dân và trí thức. Đó là tình trạng mất công bằng trong việc sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu, trong phân bổ các nguồn lực cho phát triển giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; tình trạng phân phối của cải và phúc lợi xã hội chưa hợp lý, có biểu hiện bất công; tình trạng phân hoá giai cấp, phân hoá xã hội; sự chênh lệch, bất bình đẳng trong việc thụ hưởng phúc lợi xã hội giữa những người lao động, giữa các vùng miền và các tầng lớp dân cư;...
Những điều này đã, đang và sẽ làm giảm sự đoàn kết thống nhất toàn dân trong việc phối hợp thực hiện những mục tiêu chung, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đúng như tại Đại hội XI, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận: “Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở”[4].
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm: “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”[5]. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thiết nghĩ cần tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:
Một là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, Đảng và Nhà nước tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, cũng như ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi Đảng phải trở thành hạt nhân lãnh đạo trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kinh nghiệm thực tế vừa qua chỉ ra rằng, ở những nơi có tình hình bất ổn, mất đoàn kết chính là vì nơi đó tổ chức đảng yếu kém và ngược lại, nơi nào giữ vững, phát huy được đoàn kết trong Đảng thì ở đó khối đại đoàn kết toàn dân tộc được bảo đảm vững chắc.
Để thực sự phát huy vai trò hạt nhân của mình trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng cần “Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng,... giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”[6]; “Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình”[7].
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc không phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, tận tụy, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân. Điều đó đòi hỏi cần phải “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”[8]. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”[9].
Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương trong đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... ở tất cả các cấp, các ngành. Do vậy, các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền phải chăm lo phát huy và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo pháp luật, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội, làm sứt mẻ tình cảm và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự mới có đoàn kết thực sự và bền vững; thực hiện dân chủ và đoàn kết từ trong Đảng ra toàn xã hội; thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện chức năng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân rộng rãi theo đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, thì Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần phải “tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”[10].
Hai là, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm tương đồng và giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội
Xã hội ta phát triển ngày càng đa dạng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế làm xuất hiện nhiều giai tầng với những lợi ích khác nhau. Nước ta lại là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Đảng ta đã tìm ra “mẫu số chung” cho tất cả những điểm khác nhau đó là điểm tương đồng, mà cụ thể, về chính trị là “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng”[11]. Về kinh tế, là sự phát triển hài hoà các lợi ích giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về mặt văn hoá tín ngưỡng, tâm linh, là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hoá, đạo đức mang tính nhân bản; là sự giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng; là sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Mục tiêu đó phản ánh lợi ích, nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện sự thừa nhận và tôn trọng mục tiêu riêng, lợi ích riêng của các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần kinh tế, nói chung là của mọi người dân... Để tạo ra sự tương đồng, về quan điểm, thái độ là xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
Lợi ích là động lực, sợi dây liên kết để tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Cho nên, “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội”[12]. Sự kết hợp hài hoà các lợi ích là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Nhưng sự kết hợp hài hoà các lợi ích không phải là điều hoà, bình quân lợi ích, mà phải đảm bảo công bằng trong xã hội. Do vậy, về thực chất, khả năng mở rộng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tuỳ thuộc một cách quyết định vào việc giải quyết một loạt các mối quan hệ lợi ích: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; lợi ích gia đình và lợi ích xã hội; lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế...
Thông qua đường lối, chính sách, Đảng và Nhà nước ta thực hiện sự điều chỉnh cơ cấu lợi ích trên nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích, trong đó lấy lợi ích xã hội, lợi ích tập thể đặt lên trên lợi ích cá nhân, trên cơ sở tôn trọng và đề cao lợi ích cá nhân. Việc chăm lo lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp góp phần quan trọng trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để thực hiện được điều đó, cần phải đảm bảo quyền lợi chính đáng, gắn lợi ích với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của các cá nhân trong xã hội để tự làm giàu cho bản thân trên cơ sở các điều kiện xã hội tạo ra, qua đó cống hiến cho xã hội. Tạo điều kiện cho các cá nhân thực hiện lợi ích của mình và bảo vệ lợi ích đó. Mỗi cá nhân đều có cơ hội và nghĩa vụ như nhau trong xã hội. Khuyến khích làm giàu chính đáng, cùng với làm giàu phải xoá đói giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo, phân cực xã hội và chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Việc chăm sóc và phát triển những nhu cầu, năng lực phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân là hoàn toàn cần thiết. Song không thể tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân. Phải giải quyết cho đúng mỗi quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích chung toàn xã hội… sự hài hoà giữa lợi ích quốc gia, dân tộc, giai cấp, cộng đồng, gia đình phải được coi là nguyên tắc chiến lược. Nội dung đoàn kết ngày nay gắn với cơ sở kinh tế, xã hội và phải giải quyết hài hoà lợi ích của giai cấp và tầng lớp xã hội. Chỉ có như vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc mới phát triển bền vững.
Ba là, đa dạng hóa và thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị... Đẩy mạnh phong trào: “Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tập trung vào các vấn đề: xây dựng phong trào toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp, từng gia đình làm giàu cho mình, cho cộng đồng, cho đất nước; xoá đói, giảm nghèo, phấn đấu hằng năm có thêm nhiều đơn vị, địa phương không còn hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá” và các cuộc vận động ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và “văn hoá phẩm” độc hại. Xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập”, “Học tập suốt đời”, trước hết trong cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Lên án, phê phán, đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, những hành động coi thường kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, cần phải coi trọng việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là sự liên minh về chính trị, kinh tế và xã hội. Một sự kết hợp đúng sẽ tạo ra sức mạnh, làm động lực cho sự phát triển xã hội, đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhất là trong quan hệ lợi ích kinh tế, có một số vấn đề nảy sinh, ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng khối liên minh này cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp ở những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt, dẫn đến thái độ thiếu hợp tác, nhất trí trong sản xuất và các hoạt động xã hội chung. Điều này ít nhiều tác động tiêu cực, cản trở việc xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự quản lý điều hành của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng: Trong thời kỳ mới của cách mạng, truyền thống đoàn kết của nhân dân Việt Nam sẽ không ngừng được phát huy, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tiếp tục được tăng cường./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.48.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.72.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.158-159.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.65-66.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.259.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.240.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.245.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.239-240.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.240.

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 MỞ RA KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là trang sử hào hùng, một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của nhân dân ta. Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám không chỉ là kết quả trực tiếp của cao trào chống Nhật, Pháp đã được rèn luyện và chuẩn bị theo tinh thần cách mạng là sự nghiệp của quần chúng với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, mà nó còn là kết quả của tinh thần yêu nước truyền thống đã tích tụ lâu đời trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hun đúc thành ý chí quật khởi vì nền độc lập tự do của tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đánh dấu sự kết thúc thời kỳ lịch sử đau thương để cả dân tộc ta bước vào cuộc trường chinh mới nhằm bảo vệ độc lập, thống nhất và phục hưng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân điển hình ở một nước thuộc địa nửa phong kiến do giai cấp công nhân lãnh đạo. Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội”[1]. Độc lập dân tộc là nhu cầu sống còn, khát vọng lớn lao của toàn dân Việt Nam, là mục đích của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Khi trả lời câu hỏi “Mục đích Cách mạng Tháng Tám là gì?”, Người chỉ rõ, đó là “giành lại hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”[2].
Giành và giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc là mối quan tâm hàng đầu của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Ngọn cờ đấu tranh vì nền độc lập dân tộc đã trải qua nhiều phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, nghĩa quân Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông Du và nhiều phong trào yêu nước khác, nhưng tất cả các phong trào đó đều thất bại và bị dìm trong bể máu, một trong những nguyên nhân đưa đến sự thất bại đó chính là con đường, phương pháp cứu nước của các bậc tiền bối không phù hợp, chưa có một đường lối chính trị đúng đắn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Chính vì thế, việc Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến được với chân lý của thời đại, tìm ra được con đường cứu nước, cứu dân-con đường cách mạng vô sản, là một trong những sự kiện trọng đại, đánh dấu bước ngoặt trong việc lựa chọn đường đi cho cách mạng nước ta, và đây cũng chính là cơ sở để đưa đến cuộc vận động cách mạng thành lập Đảng Cộng sản. Đảng ra đời với đường lối cứu nước đúng đắn là nhân tố quan trọng nhất đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
          Nhìn lại lịch sử phong trào công nhân thế giới những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sự kiện lịch sử vĩ đại của nhân loại tiến bộ-thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại mới, đánh dấu tương quan lực lượng trên phạm vị toàn cầu. Đây là thời đại cho phép nhân loại có cơ hội thực hiện bước quá độ lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, bao hàm cả khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đối với các nước kinh tế kém phát triển, nhờ những thuận lợi khách quan mà thời đại mới đã mở ra. Chính vì thế, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước ta giành được thắng lợi trong thời đại cách mạng vô sản. Nó phản ánh tính chất của thời đại và mở đường mang lại những nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu tầm nhận thức của chúng ta đã vượt qua những mâu thuẫn và các hạn chế trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến và tư sản. Nó cũng là kết quả thực tiễn của một đường lối đúng đắn mà Đảng ta ngay từ khi thành lập đã nêu: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”... thực chất là vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
          Khi bàn về cách mạng Tháng Tám, đồng chí Trường Chinh đã phân tích rất sâu sắc vấn đề độc lập dân tộc: “Đối với chế độ ta, thế nào là độc lập hoàn toàn? – Là lãnh thổ Việt Nam từ Nam Quan đến mũi Cà Mau phải được toàn vẹn đặt dưới chính quyền nhân dân, do nhân dân bầu ra; trên đất nước Việt Nam không có quân đội nước ngoài chiếm đóng; kinh tế Việt Nam phải được độc lập, không phụ thuộc vào kinh tế nước Pháp, hoặc bất cứ một nước nào khác. Nhân dân Việt Nam có quyền phát triển văn hóa dân tộc của mình”[3]. Cách mạng Tháng Tám chứng minh một chân lý của thời đại mới là đấu tranh cho độc lập của mỗi dân tộc thống nhất hữu cơ với mục tiêu đấu tranh chung của thời đại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Độc lập dân tộc còn là nhân tố bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của mỗi người cũng như cả dân tộc trong sự thống nhất toàn vẹn về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, là điều kiện tiên quyết của quyền được sống, quyền bình đẳng và quyền tự do của mỗi cá nhân con người. Chính vì vậy, trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về chủ quyền độc lập của đất nước: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc[4], “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[5]. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19-12-1946, một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”[6]. Độc lập dân tộc là cái đích trực tiếp của công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức đô hộ và xâm lược để khẳng định quyền tồn tại và phát triển của độc lập, sự thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.

Chủ nghĩa xã hội là nhu cầu bức thiết và ước mơ cao đẹp của nhân loại tiến bộ, là mục tiêu của cuộc cách mạng XHCN. Nó là nhân tố bảo đảm chắc chắn nhất cho nền độc lập chân chính và bền vững. Bởi lẽ, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có “khả năng bảo đảm bằng một nền sản xuất xã hội, cho mọi thành viên thành viên trong xã hội không những một cuộc sống hoàn toàn đầy đủ về vật chất và ngày càng phong phú hơn mà còn bảo đảm cho họ phát triển và vận dụng một cách hoàn toàn tự do và đầy đủ những năng khiếu thể lực và trí tuệ của họ nữa – khả năng ấy hiện nay mới xuất hiện lần đầu tiên nhưng nó đã xuất hiện thực sự”[7]. Trong lịch sử phát triển nhân loại tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai nhân tố tích cực của tiến bộ xã hội luôn gắn kết với nhau.
Với cách mạng Tháng Tám, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp gắn liền làm một, công cuộc giải phóng con người, giải phóng dân tộc thống nhất với nhau. Bởi lẽ, như Hồ Chí Minh khẳng định: Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn bộ quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Trong bối cảnh đó, chỉ có giải phóng cho dân tộc, thực hiện nền độc lập dân tộc, thì giai cấp vô sảûn mới có thể thực hiện được triệt để sự nghiệp giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn bộ xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc là mục tiêu cơ bản và trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám, là tiền đề và điều kiện để đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Vì vậy, không có chủ nghĩa xã hội, không thể có độc lập dân tộc bền vững, Người nhấn mạnh: “nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[8] và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[9].
Thực tiễn phát triển của cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã xác nhận nguyên lý: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1930 tới năm 1945 là quá trình Đảng lãnh đạo giai cấp và công cuộc đấu tranh cho các mục tiêu độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội để thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của địa chủ, phong kiến và tư sản. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã xác lập chế độ Dân chủ Cộng hòa và thực hiện mục tiêu đó, đưa cả dân tộc Việt Nam là chủ vận mệnh của mình. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1946 đến 1954 là sự tiếp tục những mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ làm tiền đề để từng bước tiến tới chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên nửa đất nước. Có hòa bình, độc lập, tự do, nhân dân miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh 21 năm để giành độc lập dân tộc, đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của nước ta đã hoàn thành, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước đã thống nhất.
Phát huy tinh thần của Cách mạng Tháng Tám, hơn 20 năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Một trong những bài học kinh nghiệm thành công được Đảng ta khẳng định đó là: “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội[10]. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước cả thời cơ và thách thức mới trên con đường phát triển. Những thời cơ, thách thức đó đang tác động mạnh mẽ đến con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những yếu tố bên trong và bên ngoài đan xen nhau, tác động lẫn nhau, thậm chí chuyển hoá cho nhau và có những thách thức làm cho nước ta có nguy cơ chệch hướng XHCN... Để bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội và thực hiện thắng lợimục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà trước mắt là “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[11].
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;... Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
Đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức to lớn và đang vững bước đi lên. Tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, tạo cho nước ta nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Kế thừa và phát huy tinh thần của cách mạng Tháng Tám, Đại hội XI của Đảng khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta tận dụng tốt thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Làm tốt những vấn đề nêu trên sẽ góp phần giữ vững độc lập dân tộc, bảo đảm điều kiện xây dựng đất nước hùng cường, phát triển theo đúng con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn./.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG. H. 2000, tr.629.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd, t.7, tr.337.  
[3] Trường Chinh. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội 1976, tr.396-397.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd, t.4, tr.1.
[5] Hồ Chí Minh. Sđd, t.4, tr.3-4.
[6] Hồ Chí Minh. Sđd, t.4, tr.480.
[7] C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 19, Nxb.CTQG, H.1995, tr.329.
[8] Hồ Chí Minh. Sđd, t.4, tr.56.
[9] Hồ Chí Minh. Sđd, t.4, tr.152.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.180.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., H.2011, tr.149.