Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG


Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là sức mạnh nội lực của dân tộc ta được đúc rút và chứng minh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ xưa tới nay, với tư tưởng lấy dân làm gốc, khoan dung, hòa hợp, tinh thần đoàn kết, yêu nước, vị tha, nhân ái... làm trọng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành ngọn cờ đại nghĩa, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh vô địch để chiến thắng địch họa. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước hiện nay, bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1]. Và một trong những phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta xác định là: “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”[2].
Chính vì thế, trong thời gian qua, mặc dù tình hình thế giới, khu vực có nhiều thay đổi, diễn biến phức tạp. Nhân dân ta phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức do tác động tiêu cực của kinh tế thế giới cũng như khó khăn nội tại của kinh tế nước ta... Song, bằng bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thắng lợi quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, y tế, giáo dục... Điều này có tác động tích cực đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đánh giá kết quả này, Đảng ta khẳng định: “Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành tựu của đất nước”[3].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình chính trị thế giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với phong trào cách mạng đấu tranh vì hoàn bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội nên việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết cũng đặt ra nhiều vấn đề mới. Đặc biệt, trong nước, có lúc, có nơi vẫn còn sự mất đoàn kết, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân về những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện những mục tiêu chung của đất nước, cũng như cản trở việc thực hiện những lợi ích riêng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là các giai cấp, tầng lớp lao động cơ bản của xã hội là công nhân, nông dân và trí thức. Đó là tình trạng mất công bằng trong việc sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu, trong phân bổ các nguồn lực cho phát triển giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội; tình trạng phân phối của cải và phúc lợi xã hội chưa hợp lý, có biểu hiện bất công; tình trạng phân hoá giai cấp, phân hoá xã hội; sự chênh lệch, bất bình đẳng trong việc thụ hưởng phúc lợi xã hội giữa những người lao động, giữa các vùng miền và các tầng lớp dân cư;...
Những điều này đã, đang và sẽ làm giảm sự đoàn kết thống nhất toàn dân trong việc phối hợp thực hiện những mục tiêu chung, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đúng như tại Đại hội XI, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận: “Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được thể chế đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hoá nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở”[4].
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm: “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”[5]. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thiết nghĩ cần tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:
Một là, phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thông qua đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, Đảng và Nhà nước tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, cũng như ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi Đảng phải trở thành hạt nhân lãnh đạo trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kinh nghiệm thực tế vừa qua chỉ ra rằng, ở những nơi có tình hình bất ổn, mất đoàn kết chính là vì nơi đó tổ chức đảng yếu kém và ngược lại, nơi nào giữ vững, phát huy được đoàn kết trong Đảng thì ở đó khối đại đoàn kết toàn dân tộc được bảo đảm vững chắc.
Để thực sự phát huy vai trò hạt nhân của mình trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng cần “Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng,... giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ”[6]; “Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình”[7].
Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc không phải chỉ bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, mà còn phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật đó một cách có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, tận tụy, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân. Điều đó đòi hỏi cần phải “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”[8]. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”[9].
Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương trong đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... ở tất cả các cấp, các ngành. Do vậy, các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền phải chăm lo phát huy và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo pháp luật, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội, làm sứt mẻ tình cảm và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự mới có đoàn kết thực sự và bền vững; thực hiện dân chủ và đoàn kết từ trong Đảng ra toàn xã hội; thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện chức năng tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân rộng rãi theo đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, thì Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần phải “tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại”[10].
Hai là, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm tương đồng và giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội
Xã hội ta phát triển ngày càng đa dạng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế làm xuất hiện nhiều giai tầng với những lợi ích khác nhau. Nước ta lại là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Đảng ta đã tìm ra “mẫu số chung” cho tất cả những điểm khác nhau đó là điểm tương đồng, mà cụ thể, về chính trị là “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng”[11]. Về kinh tế, là sự phát triển hài hoà các lợi ích giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển chung của đất nước. Về tinh thần, tư tưởng là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về mặt văn hoá tín ngưỡng, tâm linh, là sự hướng thiện, tôn trọng những giá trị văn hoá, đạo đức mang tính nhân bản; là sự giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và cộng đồng; là sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Mục tiêu đó phản ánh lợi ích, nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện sự thừa nhận và tôn trọng mục tiêu riêng, lợi ích riêng của các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần kinh tế, nói chung là của mọi người dân... Để tạo ra sự tương đồng, về quan điểm, thái độ là xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
Lợi ích là động lực, sợi dây liên kết để tập hợp các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội. Cho nên, “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội”[12]. Sự kết hợp hài hoà các lợi ích là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định sự phát triển xã hội. Nhưng sự kết hợp hài hoà các lợi ích không phải là điều hoà, bình quân lợi ích, mà phải đảm bảo công bằng trong xã hội. Do vậy, về thực chất, khả năng mở rộng và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tuỳ thuộc một cách quyết định vào việc giải quyết một loạt các mối quan hệ lợi ích: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể; lợi ích gia đình và lợi ích xã hội; lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế...
Thông qua đường lối, chính sách, Đảng và Nhà nước ta thực hiện sự điều chỉnh cơ cấu lợi ích trên nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích, trong đó lấy lợi ích xã hội, lợi ích tập thể đặt lên trên lợi ích cá nhân, trên cơ sở tôn trọng và đề cao lợi ích cá nhân. Việc chăm lo lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp góp phần quan trọng trong việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để thực hiện được điều đó, cần phải đảm bảo quyền lợi chính đáng, gắn lợi ích với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của các cá nhân trong xã hội để tự làm giàu cho bản thân trên cơ sở các điều kiện xã hội tạo ra, qua đó cống hiến cho xã hội. Tạo điều kiện cho các cá nhân thực hiện lợi ích của mình và bảo vệ lợi ích đó. Mỗi cá nhân đều có cơ hội và nghĩa vụ như nhau trong xã hội. Khuyến khích làm giàu chính đáng, cùng với làm giàu phải xoá đói giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo, phân cực xã hội và chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Việc chăm sóc và phát triển những nhu cầu, năng lực phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân là hoàn toàn cần thiết. Song không thể tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân. Phải giải quyết cho đúng mỗi quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích chung toàn xã hội… sự hài hoà giữa lợi ích quốc gia, dân tộc, giai cấp, cộng đồng, gia đình phải được coi là nguyên tắc chiến lược. Nội dung đoàn kết ngày nay gắn với cơ sở kinh tế, xã hội và phải giải quyết hài hoà lợi ích của giai cấp và tầng lớp xã hội. Chỉ có như vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc mới phát triển bền vững.
Ba là, đa dạng hóa và thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư nhỏ như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị... Đẩy mạnh phong trào: “Toàn dân đoàn kết phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tập trung vào các vấn đề: xây dựng phong trào toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, làm giàu hợp pháp, từng gia đình làm giàu cho mình, cho cộng đồng, cho đất nước; xoá đói, giảm nghèo, phấn đấu hằng năm có thêm nhiều đơn vị, địa phương không còn hộ nghèo. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hoá” và các cuộc vận động ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội và “văn hoá phẩm” độc hại. Xây dựng phong trào “Cả nước trở thành một xã hội học tập”, “Học tập suốt đời”, trước hết trong cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Tôn vinh người tốt, biểu dương việc tốt; bồi dưỡng và nhân rộng các điển hình tiên tiến. Lên án, phê phán, đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, những hành động coi thường kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, cần phải coi trọng việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là sự liên minh về chính trị, kinh tế và xã hội. Một sự kết hợp đúng sẽ tạo ra sức mạnh, làm động lực cho sự phát triển xã hội, đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhất là trong quan hệ lợi ích kinh tế, có một số vấn đề nảy sinh, ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng khối liên minh này cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tình trạng mâu thuẫn, tranh chấp ở những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt, dẫn đến thái độ thiếu hợp tác, nhất trí trong sản xuất và các hoạt động xã hội chung. Điều này ít nhiều tác động tiêu cực, cản trở việc xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự quản lý điều hành của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng: Trong thời kỳ mới của cách mạng, truyền thống đoàn kết của nhân dân Việt Nam sẽ không ngừng được phát huy, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tiếp tục được tăng cường./.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.48.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.72.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.158-159.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.65-66.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.259.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.240.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.245.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.239-240.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.240.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét