Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”[1]. Quan niệm về đời sống mới ở mỗi gia đình, Bác nói: “Về tinh thần, thì phải trên thuận, dưới hòa, không thiên tư, thiên ái. Bỏ thói mẹ chồng hành ha nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm, phải ăn đều, tiêu sòng. Có kế hoạch, có ngăn nắp”[2]. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: “Cấm: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi... Cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con dâu... Trong gia đình vợ chồng bình đẳng về mọi mặt... Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ... xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc.... Gia đình là hạt nhân của xã hội. Mọi gia đình đều đoàn kết cộng lại thành xã hội đại đoàn kết”[3].
Lịch sử đã chứng minh, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, trong điều kiện nước ta đang phát triển và đi lên trong xu thế hội nhập, Đảng ta cũng đặc biệt chú trọng đến vai trò của gia đình. Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[4]. Còn trong Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục chủ trương: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng...; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình... làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc... Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”[5]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng cũng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách[6].
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá, cụm dân cư văn hoá, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt là trong 10 năm qua, kể từ ngày Đảng và Nhà nước ta quyết định lấy ngày 28/6 hằng năm là “Ngày Gia đình Việt Nam”, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở các địa phương trong cả nước ngày càng phát triển về chiều rộng và bề sâu. Thu hút trên 90% gia đình sinh sống ở nông thôn, hoặc gia đình cư trú trên địa bàn khu dân cư tham gia. Nếu như năm 2000, cả nước mới có gần 8,7 triệu gia đình văn hóa thì đến năm 2010, con số này là hơn 16 triệu hộ. Cả nước đã có trên 1,2 triệu “người tốt, việc tốt” được suy tôn (tăng 2,4 lần). Bên cạnh đó, năm 2000 chỉ có 17.651 làng, tổ dân phố văn hóa trên cả nước được công nhận thì đến nay đã có đến 58.284 làng, tổ dân phố văn hóa. Hiện cả nước có trên 120.000 đơn vị và khu dân cư thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Từ khi phát động phong trào đến nay, việc tổ chức lễ hội đã được tiến hành chặt chẽ nên nạn cờ bạc, cá độ giảm 60%, hoạt động mê tín, dị đoan giảm 59%, tổ chức tràn lan, lãng phí giảm 47%. Nhờ đó, thiết chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng được duy trì và phát triển. Các nội dung văn hóa gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng phát triển đa dạng.
Trong giai đoạn 2008-2010, cả nước giảm 70% số vụ bạo lực gia đình. “Mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình” được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch triển khai từ tháng 8.2008 tại 75 xã, phường thuộc 63 tỉnh, thành phố. Sau ba năm thực hiện mô hình, cả nước có khoảng 2.500 câu lạc bộ “Xây dựng phát triển gia đình bền vững” với 525.000 hộ gia đình tham gia; 320 nhóm “Phòng, chống bạo lực gia đình” với 1.600 thành viên; tổ chức 3 đợt tập huấn về mô hình cho 189 cán bộ tuyến tỉnh và 192 đợt cho 7.680 cán bộ tuyến xã. Tổng số vụ bạo lực gia đình tại các xã triển khai năm sau giảm 50% so với năm trước (từ 1.071 vụ vào năm 2008 xuống còn 525 vào năm 2009 và 283 vụ vào năm 2010). Việc hình thành các tổ, nhóm, câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình tại các xã thí điểm sẽ giúp các địa phương trong việc nhân rộng mô hình ra toàn tỉnh. Đến thời điểm hiện tại, đã có 44/63 tỉnh, thành có kế hoạch nhân rộng mô hình trong giai đoạn 2011 - 2015, với số kinh phí khoảng 40 tỉ đồng.
Xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự trở thành môi trường giáo dục quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần của các thành viên trong gia đình; đơn vị trực tiếp và trọng yếu thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng. Trên 16.000 gia đình văn hóa đã làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa, mở mang ngành, nghề, thu hút và tạo việc làm cho hàng vạn lao động ở nông thôn. Từ phong trào “Xây dựng Gia đình văn hóa”, nhất là từ những tấm gương của các Gia đình văn hóa tiêu biểu đã phát huy được sự tự chủ, sáng tạo của nhân dân trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí lao động, tổ chức sản xuất, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương, góp phần mạnh mẽ vào việc mở mang ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với nhu cầu thị trường. Vì vậy, số hộ khá, hộ giàu ngày càng tăng, số hộ đói nghèo, nhất là hộ nghèo ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa giảm hẳn. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, các gia đình văn hóa luôn quan tâm nâng cao chất lượng cuộc sống, gia đình hòa thuận, hạnh phúc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Quyền trẻ em đã được pháp luật thừa nhận, được xã hội và gia đình thực hiện và phát huy. Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện để thực hiện hôn nhân bình đẳng và tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang làm cho xã hội lo lắng. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, mại dâm và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình. Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng phát triển.
Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam (Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 4.838 phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi, đại diện cho nữ giới thuộc độ tuổi này ở Việt Nam. 90 cuộc phỏng vấn chuyên sâu và 4 cuộc thảo luận nhóm cũng đã được tiến hành tại Hà Nội, Huế và Bến Tre) được Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010, cứ ba phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người (34 phần trăm) cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9 phần trăm. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng – thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58 phần trăm) phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42 phần trăm phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực, nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động từ 8 phần trăm (người H’Mong) đến 36 phần trăm (người Kinh). 
Cùng với đó, nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau gần ba chục năm qua vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xoá đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa theo kịp sự phát triển của đất nước; những mặt tích cực của gia đình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được phát huy. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được xử lý kịp thời. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chưa quan tâm đúng mức việc nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình. Công tác giáo dục trước và sau hôn nhân, việc cung cấp các kiến thức làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được coi trọng. Nhiều gia đình do quá tập trung làm kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế tạo nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ tiếp tục tác động vào số đông các gia đình. Nhiều gia đình nếu không được hỗ trợ, không được chuẩn bị đầy đủ sẽ không đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội và không làm tròn các chức năng vốn có của mình. Xu thế thu nhỏ gia đình trong xã hội công nghiệp nếu không được định hướng sẽ tiếp tục gây sức ép về nhà ở cũng như đặt việc chăm sóc trẻ em và người cao tuổi vào một thách thức mới.
Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, những khó khăn và thách thức nêu trên sẽ tiếp tục làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để góp phần giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Tiếp tục giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển. Từ đó, đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên gia đình. Bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện các văn bản luật, các chủ trương chính sách về xây dựng gia đình. Để công tác xây dựng văn hoá gia đình trong thời kỳ mới phát huy hiệu quả, rất cần có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ chính quyền ở địa phương. Quy chế xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư cần được thực hiện đồng bộ, sáng tạo, thiết thực. Theo đó, quá trình xét và công nhận gia đình văn hoá, làng văn hoá cần dựa trên những tiêu chí cụ thể, sát thực và phải được tiến hành nghiêm túc, tránh hình thức, chiếu lệ. Đặc biệt cần chống căn bệnh thành tích đang ăn sâu vào nếp nghĩ của nhiều cán bộ lãnh đạo các địa phương.
Đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hoá công tác truyền thông, tăng cường phổ biến, giáo dục để cả hệ thống chính trị, các đoàn thể, tổ chức và mọi công dân, mọi thành viên gia đình thấm nhuần chiến lược xây dựng và phát triển gia đình, Luật Hôn nhân Gia đình, quyền trẻ em và bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân số; đưa chủ đề gia đình vào các chương trình tuyên truyền, nêu gương người tốt việc tốt và phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng cuộc sống gia đình. Trên cơ sở luật pháp của Nhà nước, các cơ quan chức năng cần vận dụng sáng tạo nhằm cụ thể hoá các văn bản, các quy định phù hợp với điều kiện gia đình ở địa phương theo hướng đề cao nhân tố gia đình văn hoá tiêu biểu; có chế tài đủ hiệu lực để răn đe những hành vi vi phạm làm băng hoại hiếu thuận, lễ nghĩa trong gia đình mà các điều khoản luật pháp mới chỉ xác định ở định tính; hướng dẫn các biện pháp cụ thể, mang tính cộng đồng nhằm ngăn chặn có hiệu quả và đấu tranh mạnh mẽ loại trừ các hủ tục trong đời sống xã hội và các tệ nạn đang diễn ra trong đời sống gia đình.
Những mô hình về gia đình văn hoá, những tấm gương cha mẹ nuôi dạy con cái ngoan ngoãn, giỏi giang hay con cháu lễ nghĩa hiếu thuận với ông bà, cha mẹ cần được nhân rộng phổ biến. Những cách hành xử phù hợp, những bài học về mối quan hệ yêu thương, đùm bọc giữa các thành viên trong gia đình sẽ là hành trang quan trọng để mỗi người có thể giải quyết được những tình huống khó khăn trong cuộc sống.  Đặc biệt, các cặp vợ chồng trẻ cần cập nhật, tìm hiểu kỹ luật hôn nhân và gia đình để từ đó, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người trong việc vun vén xây dựng cho tổ ấm của mình. Công tác tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân rất cần sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ…
Đặc biệt, nhìn về lâu dài, phải có chương trình giáo dục văn hoá gia đình cho học sinh, bởi đây là những chủ thể, hạt nhân của các gia đình trong tương lai. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, giới trẻ cần được trang bị những kiến thức nền tảng về văn hoá gia đình.  Xây dựng mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa gia đình - nhà trường và các tổ chức xã hội để có sự thống nhất, đồng thuận trong thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em. Xã hội cần hỗ trợ các bậc cha, mẹ để họ có những phương pháp, biện pháp, nội dung giáo dục mới phù hợp với sự thay đổi những giá trị mới của gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, bảo đảm đủ nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Đưa nội dung công tác này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các kế hoạch hàng năm của ngành và của địa phương. Củng cố và ổn định cơ quan uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp cơ sở, đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và phối hợp liên ngành về công tác gia đình.
Có chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo việc làm, tăng thu nhập, nhất là tạo việc làm tại chỗ, nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của gia đình. Cùng với đó, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình và cộng đồng, tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình nghèo, vùng ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; có chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai, gia đình neo đơn tàn tật... Đồng thời, quan tâm tới các gia đình đã nhường đất sản xuất cho đô thị hoá, phát triển công nghiệp và các hộ di dân; triển khai và mở rộng các loại hình dịch vụ an sinh xã hội để nâng cao năng lực tự chủ của mỗi gia đình, đảm bảo cho các gia đình có cơ hội tiếp cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm sóc người cao tuổi. Xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện thoái hóa, biến chất về đạo đức, những tệ nạn xã hội, tham nhũng, lãng phí và lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền. Cùng với đó, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia đình, đặc biệt là nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình cần gìn giữ, phát huy, những giá trị mới, tiên tiến cần tiếp thu; nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; áp dụng các kết quả nghiên cứu để giải quyết những thách thức trong lĩnh vực gia đình và dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới.
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới, nó là tổ ấm tràn đầy tình yêu thương nuôi dưỡng mỗi con người lớn lên và trưởng thành… Chính vì thế, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá của gia đình.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, T.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.523.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.100.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.661-662.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.103-104.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.223.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.77.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét