Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA

Tham nhũng là vấn đề mang tính phổ biến, xuất hiện từ khi xã hội có nhà nước. Ngày nay, tham nhũng đang phát triển đến mức độ đặc biệt nguy hiểm, trở thành vấn đề nhức nhối của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, phòng, chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của mọi nhà nước.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong điều kiện hiện nay, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng phải có quyết tâm chính trị cao trong cuộc đấu tranh với nạn tham nhũng, lãng phí.
Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội, do vậy, quyết tâm chính trị của Đảng là điều kiện tiên quyết trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nói cách khác, tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Quyết tâm chính trị ở đây được hiểu là sự cam kết tuyên chiến với tham nhũng từ cấp cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hoá và công khai hoá để nhân dân giám sát chứ không chỉ dừng lại ở những nghị quyết, những lời nói mang tính hô hào, khẩu hiệu.
Bên cạnh cam kết chính trị ở cấp cao nhất, những nỗ lực chống tham nhũng lâu bền còn bao gồm sự cam kết từ các cơ quan của hệ thống chính trị, đặc biệt là những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong bộ máy đảng và nhà nước ở các cấp. Người đứng đầu các cấp có vị trí trực tiếp quyết định trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Khi người đứng đầu các cấp kiên quyết chống tham nhũng chắc chắn sẽ tập hợp xung quanh mình lực lượng mạnh mẽ chống tham nhũng.
Trước hết, người đứng đầu phải thực sự trong sáng, liêm chính, là tấm gương sáng về đạo đức lối sống, không chấp nhận tham nhũng. Sự trong sáng, liêm chính đó bắt đầu từ bản thân, tới tập thể những người thân xung quanh, gần nhất như: tập thể lãnh đạo, các cộng sự, cấp dưới trực tiếp, cho đến những người trong gia đình phải tạo thành tấm gương tập thể, chiếu vào cộng đồng xung quanh, tạo những vùng sáng liêm chính trong toàn xã hội. Đã đến lúc những cam kết này phải gắn liền với trách nhiệm chính trị của những người đứng đầu. Nếu ai không làm được thì kiên quyết thay bằng người khác.
Việc xây dựng quyết tâm chính trị phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đảm bảo Đảng lãnh đạo trong khuôn khổ luật pháp, không can thiệp vào các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử và kiên quyết xóa bỏ “vùng cấm” trong thực tế. Đảng cần phát huy dân chủ thực sự, nâng cao tính công khai, minh bạch về hoạt động của đội ngũ cán bộ các cấp, công khai địa chỉ, điện thoại, thư điện tử, tăng cường các mối quan hệ trực tiếp giữa người dân và cán bộ, đảng viên. Tăng cường các buổi tiếp dân, trực tiếp đối thoại với dân, không lựa chọn hay hạn chế diện người được tham gia tiếp xúc. Bên cạnh đó, cần thẩm tra lại những vụ thanh tra đã phát hiện tham nhũng nhưng sau đó lại kết luận chỉ xử lý hành chính, đưa ra xét xử công khai tất cả các trường hợp đúng người, đúng tội, không để lọt người, lọt tội, cũng không để oan sai.

Để chống tham nhũng thực sự đi vào chiều sâu, cũng cần mở một cuộc vận động trong quần chúng chống tham nhũng, tạo dư luận lên án buộc cơ quan chức năng phải xử lý mạnh mẽ các hành vi tham nhũng, làm cho những kẻ tham nhũng không tồn tại được và đội ngũ cán bộ, công chức phải nhìn nhận lại trách nhiệm của mình.
Vai trò của quyết tâm chính trị và sức ép dư luận là rất quan trọng, bởi nó sẽ trở thành động lực và tạo ra những ràng buộc thúc đẩy cho những quyết tâm chính trị. Và một khi quyết tâm chính trị được xây dựng sẽ tạo ra sức đề kháng bên trong một cách chủ động và tự giác của đảng cầm quyền và đòi hỏi những người đứng đầu Đảng, Nhà nước phải trở thành người tiên phong nhất, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ hai, đổi mới có hiệu quả nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước.
Phải khắc phục triệt để tình trạng đảng bao biện làm thay nhà nước, can thiệp quá sâu vào các công việc của nhà nước và cách thực hiện đó là phải sớm thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng về nội dung, phương thức, phạm vi và trách nhiệm của Đảng, phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ góp phần làm cho các cơ quan chống tham nhũng có đủ thực quyền.

Để thực hiện dân chủ trong xã hội thì trước hết phải đảm bảo dân chủ trong Đảng. Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải nói và làm đúng đường lối, nghị quyết của Đảng, kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, chống mọi biểu hiện vi phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân. Vì vậy, muốn phát động quần chúng đẩy lùi tham nhũng thì trước hết phải phát động dân chủ và thực hiện dân chủ trong Đảng và người đảng viên phải thực sự là người tiên phong, gương mẫu trong việc chống tham nhũng.
Tuy nhiên, để dân chủ thực chất, thực sự là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh với tham nhũng thì việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, như: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; dân chủ trong bầu cử, dân chủ quá trình ra quyết định, dân chủ trong quản lý, dân chủ trong kiểm tra và dân chủ trong bãi miễn cán bộ, đảng viên mất uy tín, đồng thời triển khai nó trong thực tiễn.

Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là tối thượng, không một cá nhân nào, không một tổ chức nào đứng trên pháp luật và ngoài pháp luật, tất cả đều phải tuân thủ pháp luật; mọi công dân và cơ quan nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật.

Hiện nay, để có cơ sở pháp lý cho đấu tranh với nạn tham nhũng, chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng như tổ chức hệ thống các cơ quan thực hiện. Vấn đề cơ bản hiện nay là khắc phục những rào cản trong quá trình thực thi pháp luật, trước hết là Luật Phòng, chống tham nhũng được thực thi một cách hiệu quả.
Hơn nữa, cần thực hiện đồng bộ hệ thống luật pháp liên quan đến phòng, chống tham nhũng như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Hình sự, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán, Quy chế dân chủ ở cơ sở..., khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng tổng kết thực tiễn, rà soát lại hệ thống các chủ trương, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về chống tham nhũng, tiêu cực, phát hiện và khắc phục những sơ hở, thiếu đồng bộ trong các văn bản, những yếu kém trong khâu lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và đề ra những giải pháp khắc phục. Có như vậy chúng ta mới dần loại bỏ được những cơ hội nảy sinh tham nhũng.
Thứ ba, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Việc xây dựng các thể chế này càng cụ thể và càng chặt chẽ bao nhiêu thì quyền lực càng bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu, đặc biệt là trong các lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng. Tham nhũng là căn bệnh của nhà nước, thể hiện sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Do vậy, để việc phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, có sự chuyển biến về chất thì các giải pháp đưa ra phải tập trung vào cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực bị giới hạn theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật, khắc phục tình trạng lạm quyền, chuyên quyền trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Có như vậy mới xóa bỏ được gốc rễ của những nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Thứ tư, tăng cường hoạt động giám sát của người dân, các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội dân chủ. Có thể thấy, nạn tham nhũng tỷ lệ nghịch với quá trình thực hiện dân chủ, nơi nào mà quyền làm chủ của nhân dân được phát huy thì ở đó tham nhũng bị hạn chế ở mức thấp nhất và ngược lại.

Nhưng dân chủ ở đây phải là dân chủ thực chất, nghĩa là người dân có quyền lực thực sự trong việc chủ động tham gia các công việc của nhà nước và nhà nước cũng phải có trách nhiệm để bảo đảm các quyền làm chủ của nhân dân.
Để dân chủ thực sự là phương thức kiềm chế hiệu quả nạn tham nhũng, tiêu cực, các giải pháp cần thực hiện là: Nhà nước cần thể chế hoá cụ thể và chặt chẽ các quy định cũng như cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, qua đó phản ánh, kiến nghị, tố cáo những hành vi tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là thực hiện quyền bãi miễn của mình đối với những cán bộ tham nhũng; phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông; đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời mạnh dạn thí điểm và nhân rộng các hình thức động viên nhân dân tham gia đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của nhân dân, ban hành những quy định, cơ chế bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh này.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bãi bỏ cơ chế xin - cho tài chính, bao cấp, chủ quản đối với doanh nghiệp, hình thành cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh đa dạng hóa các hình thức sở hữu, xoá bỏ tính chất “vô chủ” trong tất cả các lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, giảm tính độc quyền của các doanh nghiệp. Xử lý nghiêm các hợp đồng kinh tế có yếu tố tham nhũng.
Thứ sáu, đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức, từng cá nhân cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu quản lý hành chính nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong thời kỳ mới. Đồng thời cải tổ các cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu bộ máy quan liêu cũng như cơ hội cho tham nhũng.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động hành chính vốn có tác động trực tiếp đến quyền lợi thân thiết của người dân và doanh nghiệp; cải cách tài chính công để tạo ra các cơ quan giám sát hiệu quả được trang bị những kỹ năng về kế toán và kiểm toán cũng như cải cách việc mua sắm và quản lý tài sản công nhằm tạo ra những thủ tục công bằng, công khai và hiệu quả trong sử dụng tài sản công.
Thứ bảy, xây dựng và thực hiện một nền đạo đức công vụ trong toàn bộ hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức.
Tập trung xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử đảm bảo sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức công chức để hình thành các chuẩn mực đạo đức công vụ đúng đắn - nhân tố quan trọng để cán bộ, công chức miễn dịch với tệ tham nhũng bằng cách: Đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức; khuyến khích và tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước của cán bộ, công chức; khắc phục thói vô cảm, ích kỷ, vụ lợi trong khi thực hiện công vụ, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân... Đây là một công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài; phải tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; kết hợp giáo dục, tự giáo dục, xây và chống.
Nhanh chóng điều chỉnh, cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức làm cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương.
Đổi mới công tác cán bộ, hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng. Công khai hoá quá trình tuyển chọn, sử dụng, đánh giá cán bộ, công chức. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, lượng hoá kết quả học tập nhằm góp phần giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Trong bố trí, sắp xếp cán bộ, phải chấm dứt ngay tình trạng thiếu dân chủ, mang tính áp đặt, hiện tượng cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ trong các tổ chức đảng, chính quyền.
Nâng cao nhận thức xã hội về những biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng; tuyên truyền cho người dân nhận diện các hành vi tham nhũng, thái độ căm ghét và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Đấu tranh với nạn tham nhũng là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, lâu dài, nhưng đang là một yêu cầu bức thiết, sống còn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và đòi hỏi quyết tâm chính trị rất cao mới thực hiện được.
Nếu không đẩy lùi được “quốc nạn” này thì sự chệch hướng, mất vai trò lãnh đạo của Đảng không còn là nguy cơ nữa.
Phân tích đúng nguyên nhân, nêu rõ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh này là cần thiết để góp phần thực hiện thắng lợi cuộc chiến chống tham nhũng. Đẩy lùi nguy cơ tham nhũng là sự tự đẩy lùi, tự đề kháng ngay trong Đảng, trong Nhà nước.  


Thứ Tư, 12 tháng 10, 2011

SỰ PHÁT TRIỂN TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRUYỀN THỐNG ĐẾN CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÔ SẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - một giá trị văn hóa cao quí, chi phối đời sống tinh thần đạo đức, tư tưởng, tình cảm của mỗi người Việt Nam. Cùng với sự phát triển dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không những được lưu giữ, truyền lại qua nhiều thế hệ mà còn thường xuyên được củng cố, bổ sung, bồi đắp thêm nội dung mới cho phù hợp với mỗi thời đại lịch sử. Trong xu thế toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu sự phát triển từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh càng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhằm phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, đoàn kết cộng đồng, ý thức dân tộc, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình trí thức nho học, trên một vùng quê nghèo khó về kinh tế nhưng rất giàu truyền thống chống giặc ngoại xâm. Thời thơ ấu, Người đã nhận được sự giáo dục sâu sắc về lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm yêu thương con người và sự tác động mạnh mẽ từ truyền thống yêu nước thương dân, truyền thống đoàn kết toàn dân. Người đã ý thức sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với sự bình yên của xóm làng và đời sống hạnh phúc mỗi gia đình được vun trồng trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể nói, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hiện hữu trong con người Hồ Chí Minh. Bởi vậy, những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” trên lá cờ cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789) mà Người được nghe trong Trường tiểu học Pháp - Bản xứ ở Thành phố Vinh (1905) như ánh sáng hải đăng có sức hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ.
Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy mặt hạn chế không thể khắc phục được của các xu hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản mà các vị tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu sử dụng. Người nhận xét cụ Phan Chu Trinh dựa vào Pháp để canh tân đất nước, điều đó là sai lầm, “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng “còn nặng cốt cách phong kiến”[1]. Thực tế lịch sử cho thấy, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được hình thành, củng cố và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhưng trong thời đại mới, tư tưởng, tình cảm yêu nước và hành động cứu nước dù có cao đến đâu nếu dựa trên lập trường giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản thì vẫn bị bế tắc. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam cần được chiếu sáng của lý luận Mác-Lênin trong sự kết hợp với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt xa tầm nhìn về thời cuộc của các nhà yêu nước đương thời. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước theo một phương hướng mới, đến nước Pháp tìm hiểu chính kẻ thù đang áp bức dân tộc mình. Chứ không phải như một số quan điểm cho rằng trước khi sang Pháp Hồ Chí Minh muốn đi theo con đường cứu nước của cụ Phan Chu Trinh. Với nhãn quan chính trị sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc về độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, biết phê phán tư tưởng và xu hướng cứu nước sai lầm trước đó, biết kế thừa chọn lọc tình cảm yêu nước nồng thắm của người Việt Nam làm hành trang ra đi tìm đường cứu nước gắn với cứu dân khỏi đêm đen nô lệ. Vì vậy, Người đã tiếp cận được chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công.
Ngày 5-6-1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Văn Ba xuống tàu Amiran Catusơ Tơrêvin làm phụ bếp, mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản ở Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động thực tiễn ở nhiều nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân các dân tộc thuộc địa và cũng đã thấy sự bất công ngay trên các nước tư bản phát triển. Người khẳng định: ở Pháp cũng những người Pháp tốt, ở Pháp cũng có người ngèo như ở bên ta, những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Qua đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm hình thành tình cảm quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu nước vốn có trong Hồ Chí Minh bắt đầu mang một tình cảm mới, làm cơ sở cho chủ nghĩa quốc tế vô sản của dân tộc Việt Nam sau này. Đó là sự đồng cảm, đau xót cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và người lao động bị áp bức bóc lột dã man. Chính do sự thông cảm, yêu thương những người cùng khổ mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Hồ Chí Minh dần dần được hình thành - một tình cảm cách mạng, mang tính nhân văn sâu sắc. Sau đó Người khẳng định: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[2].
Năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lấy tên là Nguyễn ái Quốc) thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nội dung Bản yêu sách đó nêu lên là đòi quyền tự do dân chủ cho mọi người dân gắn với quyền tự quyết dân tộc thiêng liêng của họ. Yêu cầu thích đáng của nhân dân Việt Nam trong Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng đã gây một tiếng vang lớn trong nhân dân Pháp và các nước thuộc địa. Bản yêu sách được in thành những truyền đơn phân phát trong các cuộc mít tinh của nhân dân Pháp, phát cho tất cả các việt kiều và bí mật gửi về Việt Nam. Nhờ đó, nhiều người Pháp đã hiểu thêm về Việt Nam. ý thức dân tộc, dân chủ của nhân dân Việt Nam cũng được thức tỉnh tạo tiền đề cho việc tập hợp lực lượng cách mạng trong nước và mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam chống chủ nghĩa đế quốc.
Từ những nhận thức rút ra trong thực tiễn gần mười năm tìm đường cứu nước, tháng Bảy năm 1920 khi đọc Sơ thảo lần nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy lời giải đáp của Lênin và Quốc tế Cộng sản về con đường giải phóng dân tộc. Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[3]. Sự kiện lịch sử Hồ Chí Minh đọc Luận cương của Lê-nin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa là mốc đánh dấu Người tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước hết, sự kiện này tạo nên một bước nhảy vọt lớn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong lập trường chính trị và tư tưởng cứu nước của Người, hình thành ở Người chủ nghĩa yêu nước kiểu mới dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, chủ nghĩa yêu nước vô sản của Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa các mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp và quốc tế, thể hiện tập trung ở mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc gắn liền với mục tiêu và con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời, hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh trong những năm 1911 đến 1920 là quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, với mục tiêu chung phấn đấu cho độc lập tự do của dân tộc, ấm no hạnh phúc của nhân dân đến mang tình cảm quốc tế trong sáng, sau đó hòa quyện trong chủ nghĩa cộng sản là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng, tình cảm yêu nước của Hồ Chí Minh. Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin thì chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được nâng lên, tỏa sáng trên lập trường giai cấp công nhân. Từ đây chủ nghĩa Mác-Lênin có điều kiện thâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930.
Suốt hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không ngừng bồi đắp những giá trị mới cao đẹp hơn. Tư tưởng và tình cảm yêu nước của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sức mạnh lớn lao trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 13.
[2] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 192.
[3] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 83.

TINH THẦN YÊU NƯỚC-ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích vĩ đại. Hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc dân tộc ta không bị đồng hóa; nhân dân ta đã chiến đấu đánh thắng những đế chế phong kiến phương Bắc và nhiều thế lực đế quốc lớn phương Tây; xây dựng đất nước ngày một thịnh vượng. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuy diễn ra trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và phức tạp, nhưng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vị thế của đất nước, của dân tộc ngày càng được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế.
Điều gì dẫn đến những kỳ tích lớn lao đó? Điều gì đã tạo ra động lực cho sự nghiệp đổi mới phát triển như vậy? và động lực nào cho sự phát triển của đất nước ở thế kỷ XXI? Nội dung của câu trả lời có tính chất xuyên suốt nhất, bao trùm nhất cho các vấn đề ấy nằm trong chính giá trị chủ đạo của dân tộc - tinh thần yêu nước Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, trong tình hình hiện nay đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước ở thế kỷ XXI, trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực chống phá Việt Nam, trước sự tác động ngày càng mạnh mẽ của tình hình thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng, chúng ta càng phải hiểu đúng giá trị tinh thần yêu nước Việt Nam và phát huy nó trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1. Việt Nam là đất nước nông nghiệp với nền sản xuất trồng lúa nước là chủ yếu. Nhu cầu cơ bản của nền sản xuất trồng lúa nước là vấn đề trị thủy. Với đặc điểm địa lý - tự nhiên của Việt Nam, quá trình trị thủy, đấu tranh chống thiên tai, bão lụt, chống hạn không chỉ bằng sức mạnh của một tộc người, một dòng họ, của một làng hay một xã, của một vùng riêng biệt và càng không thể bằng sự cố gắng riêng lẻ của từng gia đình. Quá trình ấy đòi hỏi phải có sự cố kết cộng đồng, sự đoàn kết của tất cả các tộc người. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, các dân tộc có lịch sử sinh thành và tụ cư vào các thời điểm khác nhau nhưng đã sớm hòa đồng trong cuộc sống chung. Sự chung sức, chung lòng chống thiên tai, xây dựng và bảo vệ đất nước đã hình thành ý thức cộng đồng chung. Ý thức cộng đồng chung ấy dần dần phát triển và được nâng lên thành ý thức cộng đồng lớn hơn, đó là ý thức quốc gia dân tộc. Cho nên tinh thần yêu nước Việt Nam được nảy nở và nuôi dưỡng từ ý thức cộng đồng, từ tình yêu làng, xã. Vì vậy, yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu quê hương, yêu làng xã, yêu nhà - gia đình. Do đó, mối quan hệ Nhà - Làng - Nước là mối quan hệ thống nhất, bền chặt, thể hiện xoắn xuýt trong nội dung của tinh thần yêu nước Việt Nam. Nhà - Làng - Nước là cái trục chính để từ đó nhân lên tinh thần yêu nước đáp ứng mọi đòi hỏi của lịch sử.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tiếp và thường phải đối phó với kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh. Đó là đặc điểm nổi bật của dân tộc ta. Để tồn tại, để chiến thắng các kẻ thù lớn mạnh hơn, người Việt Nam phải đoàn kết, phải “chung lưng, đấu cật” với nhau. Ý thức cộng đồng, tinh thần yêu nước được củng cố và phát huy nhằm đáp ứng yêu cầu đó; và qua các thử thách ác liệt của chiến tranh, giá trị của tinh thần yêu nước Việt Nam càng được tỏa sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sống vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Đây là cơ sở tinh thần của dân tộc ta tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù. Điều đó cắt nghĩa vì sao một dân tộc đất không rộng người không đông như dân tộc Việt Nam mà lại chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn gấp nhiều lần.
Có thể thấy rằng chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không phải chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh mới được khẳng định mà nó luôn luôn là lẽ sống của dân tộc suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử.
Như vậy, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển bởi quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, được nảy nở và nuôi dưỡng từ ý thức cộng đồng, từ tình yêu làng, xã. Đến lượt mình tinh thần yêu nước đó hướng vào phục vụ và là động lực xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng và bảo vệ quê hương, làng, xã, gia đình, hướng vào việc phát triển ý thức cộng đồng, ý thức quốc gia - dân tộc.
2. Từ xa xưa, dưới thời phong kiến, yêu nước của dân tộc ta cũng không hoàn toàn đồng nghĩa với chủ nghĩa trung quân. Trung quân là trung với Vua, với dòng họ đương quyền. Khi Vua ấy là minh quân, dòng họ ấy là tiến bộ, tiêu biểu cho dân tộc thì yêu nước là trung quân, trung quân gắn với ái quốc. Nhưng khi triều đại ấy lạc hậu, suy đồi phản bội lại lợi ích dân tộc thì nhân dân lại chọn Vua khác, bộ phận lãnh đạo khác tiến bộ hơn đại diện xứng đáng cho dân tộc. Như thế cho thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là lợi ích bao trùm, trên hết và chi phối; đồng thời là “hoạt chất” để sàng lọc những giá trị yêu nước đích thực và giả hiệu.
Yêu nước là giá trị cao nhất trong bảng thang giá trị của bản sắc dân tộc Việt Nam trong tất cả các giai đoạn lịch sử, là thước đo giá trị của từng con người, từng công dân trước cộng đồng.
Tinh thần yêu nước Việt Nam không phải là một tư tưởng chung chung, trừu tượng mà bao giờ cũng có nội dung cụ thể hàm chứa những tình cảm thương yêu “giống nòi”, yêu nước bao giờ cũng gắn với thương dân. Tìm đường cứu nước cũng chính là tìm đường cứu dân. Xây dựng đất nước phồn vinh cũng chính là chăm lo hạnh phúc cho dân. Giải phóng dân tộc, cũng chính là giải phóng cho dân thoát khỏi gông xiềng nô lệ để vươn lên làm chủ. Độc lập tự do thì dân phải ấm no, hạnh phúc; đất nước mạnh giàu thì dân phải được giàu có, xã hội phải công bằng văn minh. Tất cả sự nghiệp ấy đều vì dân, đồng thời cũng chính do dân làm nên.
Như vậy, tinh thần yêu nước của dân tộc ta chứa đựng giá trị nhân văn rất cao cả. Hành động vì nước, vì dân là thước đo cao nhất của giá trị yêu nước Việt Nam.
Tinh thần yêu nước truyền thống của nhân dân ta từ khi có Đảng được kết hợp chặt chẽ với tinh thần yêu chủ nghĩa xã hội, vì vậy tinh thần yêu nước mang chất lượng mới, sức mạnh mới.
3. Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có những biến động phức tạp, khó lường, các nấc thang giá trị sẽ có nhiều thay đổi. Nhưng lời giải cho động lực phát triển của dân tộc ta vẫn không nằm ngoài việc phát huy nội lực, sức mạnh bên trong của cả dân tộc, trong đó nhân tố con người với tinh thần yêu nước được trang bị nội dung mới đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Để phát huy vai trò động lực của tinh thần yêu nước đáp ứng đòi hỏi của điều kiện lịch sử mới, vấn đề trước hết là phải không ngừng bồi đắp tinh thần yêu nước truyền thống những nội dung mới, nâng nó lên theo yêu cầu của lịch sử.
Làm thế nào để phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong điều kiện lịch sử mới.
Bài học “lấy dân làm gốc”, “khoan thư sức dân” có vị trí quan trọng hàng đầu, là điểm cần “khai thông” trước hết và chủ yếu. Về vấn đề này, Đảng ta đã đề ra phương châm đúng đắn và khoa học: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phương châm này đã và đang là cơ chế vận động trong đời sống xã hội ta. Thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở” là một bước cụ thể hóa của cơ chế ấy. Sự vận động có hiệu quả của cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” sẽ tạo ra động lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến hành. Đó là con đường phá bỏ mọi ách tắc để cho tinh thần yêu nước được thể hiện ra bằng hành động cách mạng sinh động của mọi người dân Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế sự vận động của cơ chế này vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, vi phạm dân chủ vẫn diễn ra ngày càng trầm trọng, làm sói mòn lòng tin của dân đối với Đảng, làm “nguội lạnh” nhiệt tình yêu nước của người dân. Vì thế, điểm “mấu chốt” cần khai thông ở đây lại là vấn đề chống tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ.
Thật là đúng lúc và có ý nghĩa, Đảng ta đã chọn đúng vấn đề, phát động cuộc vận động “xây dựng chỉnh đốn Đảng”. Có thể nói đó là cuộc vận động xuyên thế kỷ để tạo ra động lực cho dân tộc Việt Nam phát triển ở thế kỷ XXI. Như vậy, cuộc vận động này, xét về ý nghĩa còn là nhằm khai thông những ắch tắc, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước trong mỗi người dân. Vấn đề hiện nay là toàn Đảng, toàn dân với tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc thực hiện một cách có hiệu quả cuộc vận động này. Và do vậy, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên càng trở nên quan trọng.
Muốn khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước ở mỗi người dân, một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay là phải tích cực đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tuyên truyền về tinh thần yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có cất dấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn vận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[2].
Như vậy, công tác giáo dục, tuyên truyền tinh thần yêu nước phải tiến hành thường xuyên, liên tục, không được lúc nào ngừng nghỉ. Giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc là vấn đề không bao giờ cũ cả. Cần phải giáo dục mãi, giáo dục nhiều, không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng làm bật dậy từ trong sâu sa nhất của mỗi cọn tim, khối óc lòng tự hào dân tộc, ý thức quốc gia - dân tộc, làm cháy lên ngọn lửa nhiệt tình yêu nước trong mỗi con người, trong mọi tầng lớp xã hội, sự khát khao cống hiến vì sự phồn vinh của dân tộc, vì sự thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mỗi thế hệ Việt Nam với truyền thống yêu nước của mình đều có thể đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở thế hệ hôm nay vì trong họ luôn có thành tố yêu nước.
[1] Hồ Chí minh toàn tập, tập 6. Nxb CTQG. H. 1995, tr. 171
[2] Sđd, tr. 72

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN BẢO VỆ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Nghị quyết Trung ương 5, khóa X, ngày 01/8/2007 “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương và các ngành, các cấp”[1].
Đảng ta nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo chuyển biến căn bản trong việc ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng”[2].
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các văn bản của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ này, đã thể hiện nhất quán 3 quan điểm cơ bản của Đảng ta trong cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch:1. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng hiện nay.2. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng-văn hóa của Đảng.3. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp.
Xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản là âm mưu cơ bản, lâu dài và được đầu tư công phu của các thế lực cơ hội, thù địch. Trong những năm gần đây, chúng ngày càng ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức, chiêu bài khác nhau, trong đó việc lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống truyền thông, đặc biệt là internet ngày càng đem lại hiệu quả lớn cho việc tuyên truyền, xuyên tạc của chúng.
Theo số liệu thống kê đầu năm 2010, hiện tỷ lệ người sử dụng internet ở VN vào khoảng 26% dân số, tức khoảng 28 triệu người dùng, trong đó các hoạt động trực tuyến cho thấy trên 90% là đọc tin tức, sử dụng trang web tìm kiếm thông tin và dự báo con số này còn tăng lên rất nhanh trong tương lai gần. Rõ ràng, mạng internet mang lại lợi ích không giới hạn cho người sử dụng. Tuy nhiên, nếu mạng internet được sử dụng như một công cụ phản văn minh nhằm thực hiện những mưu đồ xấu như: tuyên truyền một cách xuyên tạc để hạ thấp uy tín của một cá nhân, một tổ chức hoặc thậm chí là một quốc gia thì tác hại của nó vô cùng lớn.
          Hiện nay, trên mạng internet xuất hiện nhiều luồng tư tưởng xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tiêu biểu là.
Loại thứ nhất, họ cho rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là mớ lý thuyết hỗn độn nhằm đề cao, sùng bái cá nhân; là một di hại to lớn của lịch sử, cần phải được vạch trần, lên án” (qua phim Sự thật Hồ Chí Minh) và họ còn lớn tiếng tuyên bố: Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng, nhà văn hóa vì Hồ Chí Minh không hề có một hệ tư tưởng riêng mà chỉ rập khuôn các tư tưởng sẵn có của người khác. Từ đó, quan điểm này khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam đẩy mạnh việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm hợp lý hoá cái gọi là nền tảng tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam một cách chủ quan, duy ý chí và cố gắng tìm ra sản phẩm của dân tộc để thay thế cho một học thuyết ở phương Tây đã cáo chung.
Loại thứ hai, họ cho rằng: Hồ Chí Minh không có tham vọng là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận, Người chỉ là một nhà tổ chức, một nhà hoạt động thực tiễn, mặc dù có kèm theo sau đó những tính từ như “to lớn”; “kỳ tài”; “thiên tài”.
Jean Lacouture viết: “Vị lãnh tụ của Việt Nam không tỏ ra là một nhà lý luận và hình như ít chú ý về mặt này, thậm chí còn tỏ ra khó chịu hoặc coi thường những cuộc tranh luận về chủ nghĩa…”[3]. Đọc tác phẩm của Hồ Chí Minh, ông ta đưa ra nhận xét: Không thấy những tiểu luận dài có tính lý luận khái quát mà chỉ thấy một chuỗi nghiên cứu chính trị cụ thể, những bài khái lược, những bản báo cáo khả dĩ cho chúng ta thấy rõ một sự quan tâm thường xuyên nhằm xâm nhập thời cuộc… Từ đó, cho rằng “sự nghiệp kỳ lạ của Cụ Hồ không ở chiều độ tư tưởng của nó… Cụ chỉ là một “người điều khiển kỳ tài”, một “người khéo tay thiên tài”. Ông ta còn gọi Cụ Hồ là một “người cộng sản cấu trúc” vì đã dành cả cuộc đời của mình để “xây đắp, nhào nặn, tạo dựng phong trào”[4].
          Bemard fall thừa nhận: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có học thức uyên thâm, nhưng không bao giờ là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận.
Philippe Devillers cho rằng: Thành công của những người mácxít ở Việt Nam không phải là ở học thuyết của họ mà ở hiệu lực của hệ thống mà họ đã lập nên. Tức là không phải nhờ sức mạnh của tư tưởng, lý luận mà là nhờ tài khéo léo về tổ chức.
Nhìn chung các quan điểm phản diện trên đều cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận. Thực chất các quan điểm đó nhằm hạ thấp vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận quan điểm của Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.
          Để đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái trên, chúng ta phải khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta. Điều đó, phải được luận giải trên một số vấn đề cơ bản sau:
          Thứ nhất, phải luận giải tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.  
Từ một thanh niên thuộc địa, mất nước, ra đi tìm đường cứu nước, mục tiêu trước mắt của Người là giải phóng dân tộc. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện chủ nghĩa đã trở thành một hệ thống thế giới, các dân tộc thuộc địa có thể bằng con đường nào để thắng lợi? Dưới ánh sáng luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, với tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới”[5]. Người đưa ra hình ảnh so sánh nổi tiếng, “chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, do đó cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhành như hai cánh của một con chim”[6]. Vì, bóc lột thuộc địa là một trong hai nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc, cho nên muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, trước hết phải xoá bỏ thuộc địa của chúng. Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà phải tiến hành song song. Hơn nữa, nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gặt bỏ sự đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, Họ sẽ hình thành lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[7]. Trên nền tảng lý luận đó, Người đã cùng với Đảng ta đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề  về chiến lược và sách lược dẫn đến thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám.
Thứ hai, phải luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đây là luận điểm trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người trong các thời kỳ và trên mọi lĩnh vực.
Ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong Chính cương vắn tắt do Người khởi thảo, đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong tiển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triên cách mạng xã hôi chủ nghĩa thì mới giải phóng hoàn toàn”[8]. Độc lập dân tộc gắp liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ phát huy tác dụng trong giai đoạn Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc  mà còn xuyên suốt quá trình tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và trong nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Nắm được nội dung tư tưởng ấy, quán triệt đúng nguyên tắc chiến lược ấy của Người là cơ sở phương pháp luận để hiểu được con đường phát triển của cách mạng nước ta, đồng thời giúp chúng ta hiểu rõ những nguyên nhân sâu xa và biểu diễn phức tạp của tình hình thế giới hiện nay. Cũng trên cơ sở ấy, hiểu rõ vì sao Đảng ta lại kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta. Chân lý độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh và được cách mạng Việt nam vận dụng thành công đã khẳng định đó cũng là chân lý lớn của thời đại.
          Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một đóng góp của cách mạng Việt nam trong kho tàng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại hiện nay.
          Thứ ba, phải làm rõ những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất, đăc trưng, về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
          Người nói : “Muốn biết ta tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào thì trước hết phải biết chủ nghĩa xã hội là gì”.
          Theo Người, “mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu,  nước mạnh, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã hội do dân lao động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là sự tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân, trong đó, con người mới xã hội chủ nghĩa được phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, đạo đức và tinh thần. Tiến lên chủ nghĩa xã hội “là yêu cầu cấp bách của hàng chục triệu người lao động, là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng” “ Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liên với yêu chủ nghĩa xã hội, vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”[9].
          Xuất phát từ đặc điểm nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đất nước tạm thời bị chia cắt, lại có chiến tranh, Người đề ra chủ trương: vừa kháng chiến vừa kiến quốc vừa chống Mỹ, cứu nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sáng tạo độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
          Đặc biệt, Người thường xuyên nhắc nhở phải đề phòng cách làm rập khuôn, giáo điều ; cần xuất phát từ thực tế để tìm ra con đường đi riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm nước ta. Người nói : “Hiện nay, đứng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy chúng ta có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm đó một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[10].
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới hiện nay nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
          Thứ tư, phải làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền.
Muốn đưa cách mạng đi tới thắng lợi, theo Hồ Chí Minh “Trước hết, phải có Đảng cách mện, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công”.[11] Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản lãnh đạo là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng ta ra đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, giữa lúc phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương năm 1930. Người nói Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ, nó được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hôih hữu khuynh và tả khuynh. Người cũng chỉ rõ: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân của toàn thể nhân dân lao động chứ không phải mưu cầu cho lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[12]. Để xứng đáng là Đảng lãnh đạo, Người yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thành một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Trong điều kiện Đảng cầm quyền để dề phòng nguy cơ thoái hoá, biến chất. Người luôn luôn nhấn mạnh người đảng viên phải “suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân”[13]. Có thể nói, lần đầu tiên trong các Đảng cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng Đảng phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Muốn thế, Người đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Những tư tưởng đó, đã, đang và sẽ là kim chỉ nam soi đường cho cách mạng nước ta.
          Đó là những tư tưởng cơ bản đấu tranh, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay. Những tư tưởng đó, đã được lịch sử kiểm chứng và khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Vịêt Nam. Mỗi người Việt Nam phải có trách nhiệm bảo vệ, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới trong thời đại mới, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.  


[1] Văn kiện Hội nghị Trung ương 5, khóa X, Nxb CTQG, H, 2007, tr.45
[2] Văn kiện Hội nghị Trung ương 9, khóa X, Nxb CTQG, H, 2009, tr.187-188
[3] J. Lacouture: Hå ChÝ Minh, Ed.Seuil, Paris, 1967, tr.200.
[4] . Lacouture: Hå ChÝ Minh, s®d, tr.181, 200.
[5] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,IX
[6] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,IX
[7] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,X
[8] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,X
[9] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XII
[10] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XII
[11] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 2. tr,267- 268
[12] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XIV
[13] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XIV

TÔN TRUNG SƠN VÀ HỒ CHÍ MINH VỚI MỤC TIÊU “ĐỘC LẬP-TỰ DO-HẠNH PHÚC”

“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là khái niệm mà Hồ Chí Minh kế thừa của Tôn Trung Sơn để áp dụng vào cách mạng Việt Nam, nhưng thực chất khái niệm ấy của hai lãnh tụ này có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích, so sánh, đánh giá quan điểm của Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, để thấy được những mặt tiến bộ, tích cực và hạn chế trong quan điểm của Tôn Trung Sơn và giá trị đích thực của mục tiêu “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã, đang và sẽ tiếp tục phấn đấu thực hiện.
Tôn Trung Sơn - Tôn Dật Tiên (1866-1925) - nhà dân chủ cách mạng, người sáng lập Chủ nghĩa tam dân (Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa dân quyền, Chủ nghĩa dân sinh), người cha của cách mạng Trung Quốc. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đến các nhà yêu nước của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó tiêu biểu là Hồ Chí Minh với nội dung được hết sức quan tâm là ba nguyên tắc: “Dân tộc độc lập; Dân quyền tự do; Dân sinh hạnh phúc”[1](1) và chính sách “thân Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”. Đây là những tư tưởng tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh, trước hết là ở việc lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu của cách mạng. Tôn Trung Sơn coi Chủ nghĩa  dân tộc là Chủ nghĩa quốc tộc (quốc gia), đây là cái làm cho mọi người hiểu được nguy cơ của dân tộc mình và cùng nhau đoàn kết lại để thực hiện mục tiêu chung của dân tộc-mục tiêu cứu nước. Chủ nghĩa dân tộc được củng cố thì chủ nghĩa thế giới mới có thể phát triển được nhưng ông lại cho rằng: “Chủ nghĩa Marx không phải là chủ nghĩa cộng sản đích thực, cái mà Proudon, Bacunin chủ trương mới là chủ nghĩa cộng sản đích thực”[2]. Thực chất tư tưởng của Proudon (1809-1865) và Bacunin (1814-1876) là đứng trên quan điểm của giai cấp tiểu tư sản, hy vọng vào việc cải tạo xã hội tư bản theo mô hình lý tưởng phù hợp với đạo đức và tình cảm của người tiểu tư sản ngay trên cơ sở tồn tại của xã hội tư bản. Họ kiên quyết phủ nhận chủ nghĩa Mác, bác bỏ chuyên chính vô sản và vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu các giai cấp bóc lột. Đây là chủ nghĩa cải lương, vô chính phủ.
Như vậy, Tôn Trung Sơn đã không hiểu Chủ nghĩa Mác, không thấy được quy luật, động lực của sự vận động và phát triển của lịch sử, ông phê phán chủ nghĩa cộng sản khoa học, ca ngợi xã hội được xây dựng trên tinh thần tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, ông lấy cái mà lịch sử đã chứng minh tính hạn chế và đào thải để coi đó là cái đích thực. Ngoài ra, ông coi sự tăng giảm dân số là cơ sở của sự vận động, phát triển lịch sử chứ không phải là do phương thức sản xuất, và khi phác thảo về mục tiêu đấu tranh để giải phóng dân tộc thì ông có tư tưởng bá chủ, khi cho rằng: “An Nam và Miến Điện vốn là lãnh thổ của Trung Quốc”. Đồng thời, Tôn Trung Sơn không lựa chọn con đường cách mạng vô sản để cứu nước mà chỉ dừng lại ở cuộc cách mạng dân chủ tư sản-tức là khi cách mạng thành công thì chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo-phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thực chất lợi ích dân tộc mà ông theo đuổi chẳng qua chỉ là lợi ích của giai cấp tư sản.
Đối với Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”[3]. Đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế và khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi thì nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. Người viết: “Khi chủ nghĩa dân tộc... thắng lợi,..., nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[4], là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đã tìm ra cho dân tộc con đường cứu nước giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và cuối cùng là giải phóng nhân loại bị áp bức, giải phóng các dân tộc thuộc địa. Điều này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và toàn nhân loại. Như vậy, “chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn khng phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”[5].
Trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp mà đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, “là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” tức là hai giai đoạn cách mạng: dân tộc (tư sản dân quyền) dân chủ (thổ địa) và chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa”[6]. Tức là, cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước, bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Điều này cho thấy, độc lập, thống nhất là nhiệm vụ trước mắt, hàng đầu; từng bước thực hành dân chủ. Hoàn thành tất cả các nhiệm vụ đó cũng có nghĩa là xây dựng điều kiện để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích toàn nhân loại.
Tôn Trung Sơn, căn cứ vào sự thông minh tài sức của nhân dân để phân biệt 3 loại người: Biết trước, giác ngộ trước trước; biết sau, giác ngộ sau và không biết, không giác ngộ. Biết trước, giác ngộ trước trước là những người tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp trí thức. Biết sau, giác ngộ sau là những nhà tuyên truyền. Không biết, không giác ngộ đây là quảng đại quần chúng công nông. Điều này cho thấy, ông không thấy được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, mà lại quá đề cao vai trò của những nhà lý luận, nhà khoa học, nhà cách mạng.
Khác với Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh coi “Dân” là tất cả những người lao động trong xã hội, không phân biệt già-trẻ, trai-gái, dân tộc, tôn giáo, giàu-nghèo... Trong đó công nông là đông nhất, bị áp bức nặng nề nhất và là người gan góc nhất, do đó, “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”[7]. Tức là, công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt, là đội quân chủ lực của cách mạng. “Dân” không bao hàm bọn phản quốc, bọn tay sai “bán nước hại dân”, những kẻ đi ngược lại với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Do đó, Người luôn có niềm tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của nhân dân, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân với ý nghĩa “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”[8]. Lợi ích dân tộc là tiêu chí để phân biệt lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng.
Chủ nghĩa Dân quyền chủ trương dân quyền bình đẳng, phổ biến, mọi cá nhân và đoàn thể chống đế quốc đều được hưởng quyền tự do, dân chủ. Theo Tôn Trung Sơn, dân quyền là sức mạnh chính trị của nhân dân, nhân dân quản lý chính trị, tức là có quyền: tuyển cử, bãi miễn, sáng chế, phúc quyết. Chính phủ có quyền: lập pháp, tư pháp, hành pháp, giám sát và khảo thí. Muốn thực hiện được vấn đề “dân quyền” thì cần phải có một chính phủ có đủ năng lực, có quyền định đoạt, không hạn chế hành động của họ, mọi việc do họ tự do xử lý, có thế quốc gia mới tiến bộ, tiến bộ mới nhanh. Tức là, những người tham gia chính phủ phải là những người hữu năng-trị quyền.
Đồng thời, Tôn Trung Sơn bàn đến vấn đề bình đẳng trong xã hội và cho rằng: “Nói đến địa vị bình đẳng trong xã hội là nói địa vị khởi điểm ban đầu bình đẳng, sau đó mỗi người nhờ vào thông minh tài lực bẩm sinh rồi tự mình rèn luyện, vì thông minh tài lực bẩm sinh khác nhau nên kết quả đương nhiên khác nhau, thành tựu tài cán khác nhau, do đó đương nhiên không thể bình đẳng. Như thế mới là đạo lý của bình đẳng thật”[9]. Do đó, nếu thực hiện bình đẳng một cách đồng loạt thì xã hội sẽ suy thoái và đi vào khủng hoảng. Vì thế nói dân quyền bình đẳng, thế giới phải tiến bộ với ý nghĩa là nhân dân phải có địa vị bình đẳng về chính trị. Chỗ đứng của bình đẳng tự do là dân quyền, phụ thuộc vào dân quyền. Dân quyền phát triển rồi thì bình đẳng tự do mới có thể tồn tại lâu dài, nếu không có dân quyền thì không giữ được bất luận bình đẳng tự do gì.
Cùng với quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm kiếm một thể chế chính trị không theo hướng của các cuộc cách mạng ở Pháp, Mỹ, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc vì đó là những nhà nước dựa trên nền tảng của chế độ dân chủ tư sản. Mà đối với cách mạng Việt Nam, chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì phải làm cho đến nơi, nghĩa là khi cách mạng thành công thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, không để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.
Pháp luật phải dựa trên nền đạo đức, đạo đức là gốc của pháp luật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật có vai trò là công cụ quản lý của nhà nước và công cụ của từng cá nhân để bảo vệ, bảo đảm tự do, công bằng, dân chủ, bình đẳng nam nữ và bình đẳng xã hội. Điều này thể hiện tính nhân văn, tư tưởng tiến bộ, khoa học, khắc phục sự nhận thức tuyệt đối hoá vai trò giai cấp của pháp luật, thể hiện sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội to lớn của pháp luật. Tư tưởng pháp luật của Người được trình bày trong một chỉnh thể thống nhất với các vấn đề dân chủ, tự do, kinh tế, văn hóa. Đây cũng chính là đời sống thực của pháp luật, pháp luật đi lên từ đời sống xã hội và quay trở về phục vụ đời sống xã hội. Đồng thời, còn chứa đựng những vấn đề triết lý về bản chất, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật và các quy tắc xã hội khác mà trực tiếp nhất là đạo đức. Tức là, pháp luật XHCN phải dựa trên nền đạo đức - đạo đức cách mạng thì mới thuyết phục được đa số nhân dân tự giác thực hiện và ủng hộ.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý xã hội, Người đã chỉ ra rằng: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”[10]. “Trăm điều” là một đại lượng có tính tuyệt đối, nhưng rất cụ thể, được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập đến một cái chung, bao quát. Còn “thần linh pháp quyền” là chỉ một điều rất thiêng liêng và mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi lúc của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của mọi công dân và các tổ chức xã hội phải thể hiện được “thần linh pháp quyền”. ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi cơ quan nhà nước, môi trường pháp chế bao trùm đời sống xã hội. Vì thế, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ nhanh chóng thực hiện việc tổ chức tổng tuyển cử và ban hành “một hiến pháp dân chủ”[11] với mục đích là bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng. Hiến pháp dân chủ đó không những là cơ sở pháp lý để xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mà còn là nền tảng để ban hành các đạo luật cụ thể nhằm thực hiện và bảo đảm bằng pháp luật các quyền dân chủ của nhân dân.
Sự thống trị của pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội của một đất nước là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền. Đó là nhà nước tự đặt mình dưới luật, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật, tuân thủ các đạo luật do mình thông qua. Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tầm quan trọng tối thượng của một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng phải là pháp luật dân chủ, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, là cơ sở pháp lý để xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thể hiện vai trò xác định mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước với công dân... có như vậy nó mới trở thành một phương tiện để xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền.
Tôn Trung Sơn coi Chủ nghĩa dân sinh là “chủ nghĩa xã hội, còn gọi là chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa đại đồng”[12]. Bởi vì, xét đến cùng, mục đích của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là giải quyết vấn đề dân sinh. Đây là điểm tương đồng giữa Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh trong việc hướng tới một xã hội mà các nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại... của nhân dân được đáp ứng. Song trong cách thức giải quyết vấn đề này lại có nhiều điểm khác nhau, nhất là trong cương lĩnh ruộng đất.
Vấn đề ruộng đất được Tôn Trung Sơn coi là cái gốc của tất cả các vấn đề xã hội. Nếu ruộng đất được phân chia đồng đều thì sự phân biệt giàu nghèo sẽ không quá găy gắt. Ngược lại, nếu có sự bất bình đẳng, nó sẽ tạo nên những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Do đó, ông chủ trương thực hiện bình quân địa quyền, tức là tiến hành công hữu quyền ruộng đất, nhằm xoá bỏ sự lũng đoạn điền thổ của giai cấp thống trị phong kiến, khiến cho quyền ruộng đất trong cả nước đều được sử dụng một cách công bằng, hợp lý đem lại lợi ích chung cho mọi người và nó được thực hiện thông qua việc trao quyền định giá đất đai cho chủ đất, quy định về giá đất... tiến tới người cày có ruộng. Đối với vấn đề tiết chế tư bản, Tôn Trung Sơn đề ra hai chính sách: tiết chế tư bản tư nhân và phát triển tư bản nhà nước để chế độ tư bản tư nhân không thể thao túng được quốc kế dân sinh, ngăn chặn sự phân biệt giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội do sự chênh lệch giàu nghèo giữa tư bản tư nhân và người lao động. Giải quyết vấn đề này phải dùng phương pháp hoà bình với 4 biện pháp: Cải cách xã hội và công nghiệp; công hữu hoá ngành giao thông; đánh thuế trực thu tức là thuế thu nhập; xã hội hoá phân phối, tức là hợp tác xã.
Cùng với đó là đẩy mạnh phát triển tư bản nhà nước với hy vọng sẽ tạo ra được sức mạnh đối kháng chống lại sự áp chế về kinh tế của thế lực đế quốc để chấn hưng công nghiệp, phát triển thực nghiệp quốc gia, khai thác nguồn tài nguyên giàu có, tạo nên tư bản nhà nước trên cơ sở phát triển giao thông, đường sắt, đường sông với quy mô lớn; thực hiện khai khoáng; sản xuất công nghiệp. Đồng thời, lấy những doanh nghiệp nhà nước để hạn chế phạm vi phát triển và lũng đoạn của tư bản tư nhân nhằm tạo nên sự công bằng về quyền lợi vật chất cho mọi người trong xã hội, cũng như tạo nên sức mạnh nội tại của quốc gia để chống lại những áp lực về kinh tế từ bên ngoài, mang lại một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Trung Quốc.
Việc “mơ tưởng” rằng ở Trung Quốc có thể “ngăn ngừa” được chủ nghĩa tư bản, rằng ở đó “cuộc cách mạng xã hội” sẽ dễ dàng hơn vì đó là nước lạc hậu,... thực chất là một “mơ tưởng” hoàn toàn phản động vì “cuộc cách mạng kinh tế” đó đưa đến sự chuyển giao địa tô cho nhà nước, thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất thông qua một thứ thuế thống nhất. Sự chênh lệch giữa giá trị ruộng đất ở vùng nông thôn hẻo lánh và ở đô thị lớn là sự chênh lệch về số lượng địa tô. Giá trị ruộng đất là địa tô được tư bản hóa. Biến “sự tăng thêm giá trị” của ruộng đất thành “tài sản nhân dân” thì có nghĩa là chuyển giao địa tô, tức là sở hữu ruộng đất, vào tay nhà nước, hay nói một cách khác là quốc hữu hóa ruộng đất. Một cuộc cải cách như thế trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản là sự tiêu biểu cho chủ nghĩa tư bản thuần túy nhất, triệt để nhất, hoàn chỉnh, lý tưởng nhất và nếu thực hiện đầy đủ cương lĩnh ruộng đất ấy thì sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp phát triển hết sức nhanh chóng.
Vấn đề “Cương lĩnh ruộng đất” ở Hồ Chí Minh được xác định một cách cụ thể, rõ ràng và triệt để hơn nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Với chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, tiến hành tịch thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” là một phần rất quan trọng trong nhiệm vụ cách mạng dân chủ, để xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng sức sản xuất, xác lập vai trò làm chủ của người nông dân ở nông thôn, cho nên việc thực hiện người cày có ruộng là góp phần thực hiện tích cực nhiệm vụ chống đế quốc. 
Sự khác nhau nữa giữa hai lãnh tụ này còn là ở phương pháp: Tôn Trung Sơn không coi đấu tranh giai cấp là một động lực của sự phát triển xã hội mà coi vấn đề dân sinh mới chính là động lực gốc của lịch sử, bởi nó góp phần giải quyết những vấn đề về đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng, cho nên “phải đưa trung tâm của chính trị, xã hội, kinh tế trong lịch sử quy về vấn đề dân sinh, lấy dân sinh làm trung tâm của lịch sử xã hội”[13], thực chất đây là việc cố tình che dấu mâu thuẫn giai cấp. Do đó, ông không đồng ý với việc dùng chuyên chính công nông, tức là dùng phương pháp cách mạng để giải quyết vấn đề kinh tế, nếu dùng phương pháp cách mạng chỉ có thể giải quyết được vấn đề chính trị, chứ không thể giải quyết được vấn đề kinh tế và nếu dùng biện pháp cách mạng để giải quyết vấn đề kinh tế chắc chắn sẽ không thể có được những thành công, nếu không muốn nói là thất bại.
Đối với Hồ Chí Minh, việc cứu nước và giải phóng dân tộc phải bằng con đường cách mạng vô sản. Chủ nghĩa dân tộc, đấu tranh giai cấp, đoàn kết toàn dân là động lực của sự phát triển xã hội. Việc giành chính quyền về tay nhân dân mới chỉ là bước đầu mà nhiệm vụ chính là xây dựng đất nước, là ra sức thi đua sản xuất để: Toàn dân đủ ăn đủ mặc; toàn dân biết đọc, biết viết; toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới, để diệt ngoại xâm; toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn. Thế là chúng ta thực hiện: Dân tộc độc lập. Dân quyền tự do. Dân sinh hạnh phúc. Muốn vậy, phải phát triển kinh tế, văn hoá, các đạo luật về tự do dân chủ,... đó là những vấn đề rất quan trọng về quốc kế dân sinh, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Độc lập, tự do, hoà bình, là điều kiện để xây dựng, tổ chức tốt đời sống cho nhân dân. Không thể đem lại cho con người hạnh phúc thực sự nếu như không thủ tiêu được chế độ người bóc lột người. Do đó, độc lập dân tộc phải thực sự, hoàn toàn, gắn với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; xoá bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột. Tức là, độc lập dân tộc phải gắn liền và kết hợp hữu cơ với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy và kế thừa ở Tôn Trung Sơn nhiều tư tưởng tiến bộ phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta, nhưng đây là một sự tiếp biến đặc biệt, sự tiếp biến vượt gộp để tạo ra một giá trị tư tưởng độc đáo, mới mẻ, cách mạng. Nghĩa là, không dừng lại ở những chủ trương của Quốc dân Đảng mà Hồ Chí Minh đã phát triển khái niệm “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” lên một trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng sâu sắc, triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng./.


[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb CTQG, Hà Nội, 1969, tr.62.
[2] Tôn Trung Sơn, Chủ nghĩa tam dân, Nxb Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.122.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.466. 
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., t.1, tr.467.
[5] Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr.91.
[6] PGS. TS Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008, tr.193.
[7] Hồ Chí Minh, Sđd., t.2, tr.266.
[8] Hồ Chí Minh, Sđd., t.10, tr.197.
[9] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.212.
[10] Hồ Chí Minh, Sđd., t.1, tr.438.
[11] Hồ Chí Minh, Sđd., t.4, tr.8.
[12] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.313.
[13] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.344.