Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA HỆ TƯ TƯỞNG PHONG KIẾN Ở ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC NƯỚC TA HIỆN NAY



Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn ấy, đội ngũ trí thức phải được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng. Trong hàng loạt các biện pháp xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức hiện nay thì việc đấu tranh nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông có vai trò quan trọng góp phần nâng cao phẩm chất cách mạng, năng lực chuyên môn, bản lĩnh khoa học... cho đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong tình hình mới.
Cơ cấu đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay rất đa dạng, trong đó không thể không kể tới những trí thức được đào tạo dưới chế độ thực dân, phong kiến. Điều đó khó tránh khỏi “một bộ phận trí thức, ở mức độ khác nhau còn chịu ảnh hưởng các các mặt hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông...”[1] trong quá trình phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay. Để cuộc đấu tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông ở đội ngũ trí thức có kết quả, trước hết phải nhận rõ những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông ở đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay.
Khi phân tích, Đảng lao động Việt Nam với lao động trí óc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, “chúng ta phải thật thà nhận rằng: về chuyên môn và trong mức nào đó, thì anh chị em trí thức khá. Song, vì ngày trước, anh chị em bị giáo dục trong đường lối và khuôn khổ thực dân và phong kiến, cho nên tư tưởng và lề lối làm việc của anh chị em không khỏi ảnh hưởng của thực dân và phong kiến”[2]. Thực tiễn cách mạng đã cho thấy, mặc dù chính quyền của thực dân, phong kiến đã bị cách mạng đánh đổ mấy mươi năm nay, song, ý thức hệ và những tâm lý, tập quán phong kiến vẫn còn tồn tại dai dẳng trong đời sống, đeo bám vào các tầng lớp trong xã hội, trong đó có đội ngũ trí thức. Quá trình phát triển nhiều trí thức đã tự mình “gột rửa” những “tàn tích” phong kiến và vươn lên trở thành những trí thức chân chính, góp phần tích cực vào công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và BVTQ. Vì vậy, họ được xã hội trân trọng, “đồng bào kính trọng, Chính phủ và đoàn thể nêu cao”[3]. Song, bên cạnh đó còn những trí thức bị ảnh hưởng những tư tưởng và lề lối làm việc phong kiến, tự trói buộc mình trong những giáo điều đã lỗi thời nên tự họ đã hạn chế tài năng của mình trên lĩnh vực khoa học và do đó không góp được nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp khoa học, thậm chí có những trí thức còn trở thành vật cản của công cuộc đổi mới.
Như vậy, có thể thấy những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến và kinh tế tiểu nông đối với tư tưởng và lề lối làm việc của trí thức hiện nay vẫn còn, trong đó tập trung chủ yếu vào mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, hệ tư tưởng phong kiến và kinh tế tiểu nông đã hạn chế sự phát triển ý thức hệ vô sản, mà trước hết là cản trở sự truyền bá, tiếp thu, vận dụng, phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của đội ngũ trí thức trong thực tiễn.
Những quan niệm, quan điểm dựa trên thế giới quan, phương pháp luận duy tâm, siêu hình trong hệ tư tưởng phong kiến đối lập với thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự đối lập này sẽ làm cho những nguyên lý, lý luận Mác-xít sẽ gặp phải các rào cản cả về thế giới quan, phương pháp luận và lợi ích giai cấp của hệ tư tưởng phong kiến trong quá trình truyền bá, tiếp thu, vận dụng, phát triển trong thời kỳ mới.
Thứ hai, hệ tư tưởng phong kiến và kinh tế tiểu nông đã hạn chế sự phát triển của tư duy lý luận của đội ngũ trí thức.
Những tư tưởng, quan điểm - sản phẩm của tư duy kinh nghiệm, đặc biệt là bệnh kinh nghiệm của hệ tư tưởng phong kiến là lực cản trực tiếp đối với quá trình phát triển từ tư duy kinh nghiệm vươn lên tư duy lý luận khoa học của đội ngũ trí thức. Đặc biệt, khi bệnh giáo điều, kinh nghiệm được ngụy biện bởi lý luận khoa học thì sự cản phá của nó đối với tư duy lý luận không chỉ là cản trở quá trình biện chứng nhận thức chân lý mà nó còn xuyên tạc, bóp méo sự thật gây ra những hoài nghi về tính chân thực, cách mạng của thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng. Theo đó, hệ quả tất yếu mà nó gây ra chính là cản trở sự năng động, sáng tạo của đội ngũ trí thức trong việc vận dụng, phát triển lý luận khoa học vào đời sống thực tiễn. 
Thứ ba, hệ tư tưởng phong kiến, tiểu nông đã hạn chế phong cách làm việc khoa học của đội ngũ trí thức.
Dưới chế độ thực dân và phong kiến “những người lao động trí óc, những người trí thức chân chính bị bọn thống trị biến thành những người làm thuê cho chúng, “sớm vác ô đi, tối vác về”[4]; hoặc thấy mình là “lớp tiên tri, tiên giác” mà trở nên “kiêu ngạo, lên mặt”[5]... Điều này sẽ ảnh hưởng đến phong cách làm việc dân chủ, cởi mở, tận tâm, tận lực trong nghiên cứu, tìm tòi chân lý và sáng tạo ra cái mới chứa đựng các giá trị khoa học phục vụ cho phát triển của chính người trí thức và cho sự phát triển xã hội. Sự hạn chế trong phong cách làm việc sẽ dẫn đến sự khiếm khuyết trong nhân sinh quan, nhân cách của người trí thức chân chính, cách mạng, tiến bộ.
Thứ tư, hệ tư tưởng phong kiến, tiểu nông tạo kẽ hở để kẻ thù kích động, lợi dụng chống lại chính mục đích nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, văn minh, phát triển của khoa học.
 Lối sống “sinh hoạt phong lưu, nhưng tinh thần thì bị mờ mịt”6,  ”cầu an, hưởng lạc” của trí thức dưới thời thực dân và phong kiến còn rơi rớt lại ngày nay sẽ là môi trường thuận lợi để các cám dỗ của lối sống tư sản phương Tây, mặt trái của cơ chế thị trường sẽ xâm nhập, mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo... đội ngũ trí thức cuốn vào vòng xoáy của những ham muốn hưởng lạc trái với thuần phong mỹ tục và văn hoá dân tộc. Nếu không nhận thức và giải quyết được một cách khoa học về quan hệ lợi ích, thì chắc chắn những trí thức này sẽ bị ham muốn tiền bạc, quyền lực... sai khiến mà bất chấp chân lý khoa học và đạo lý làm người lương thiện, từ đó có những suy nghĩ và hành động đi ngược lại với những mục đích, bản chất tốt đẹp của khoa học, đi ngược lại mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc ta trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những tác động tiêu cực của hệ tư tưởng tưởng phong kiến, tiểu nông ở đội ngũ trí thức hiện nay cần tập trung vào “cải tạo tư tưởng, sửa đổi lề lối làm việc; đào tạo trí thức mới, cải tạo tri thức cũ; công nông trí thức hóa; trí thức công nông hóa”7. Theo đó cần phải tập trung vào mấy vấn đề sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và phát triển môi trường sống và làm việc thật sự mang tính văn hoá cao và khoa học trong đội ngũ trí thức.
Có rất nhiêu tiêu chí đánh giá môi trường sống và làm việc thật sự có văn hoá cao và khoa học, trong đó, tính dân chủ là yếu tố quan trọng hàng đầu, phản ánh đậm nét tính văn hoá và khoa học của môi trường sống, làm việc của đội ngũ trí thức cách mạng. Môi trường sống và làm việc nếu phát huy được dân chủ sẽ “làm cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa”[6]. Sự công khai, thẳng thắn, trung thực trong các quan hệ ứng xử sẽ góp phần hạn chế, đẩy lùi tệ chuyên quyền, độc đoán, kiêu ngạo, chủ quan, ích kỷ, hẹp hòi, coi thường người khác... trong  bản thân mỗi trí thức.
Trong môi trường văn hoá sẽ thúc đẩy quá trình tự “hoá văn” trong mỗi người trí thức. Chân giá trị chân - thiện - mỹ được hình thành, phát triển trong quá trình “hoá văn”  sẽ làm cho thói  ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, độc đoán... sẽ ngày càng thấy mình xa lạ, kệch cỡm trước xu thế phát triển tiến lên của thực tiễn đời sống.  
Dân chủ và kỷ cương dưới CNXH về bản chất là có sự thống nhất với nhau, gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. Vì vậy, để có và bảo đảm quyền dân chủ thì bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm dân chủ như:  “ban hành qui chế dân chủ trong hoạt động khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ...”[7], hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền dân chủ trong các hoạt động cho đội ngũ trí thức.... thì việc xử lý nghiêm khắc và dân chủ các biểu hiện mất dân chủ trong hoạt động của trí thức có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo đảm môi trường dân chủ thực sự cho hoạt động của đội ngũ trí thức.
Hai là, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ trí thức.
Phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ trí thức hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cũng có nhiều thách thức. Những biến đổi nhanh chóng của thực tiễn hàng ngày, hàng giờ đang đặt ra cả về phương diện lý luận và thực tiễn mà chưa có lời giải thật sự khoa học đủ sức thuyết phục mọi người. Theo đó, nếu không có tư duy lý luận khoa học vững chắc sẽ rất dễ dao động, thiếu niềm tin vào những nguyên lý lý luận đã được đúc kết và sự đơm hoa kết trái tất yếu trong công cuộc tìm kiếm chân lý khoa học. Sự dao động này dễ xuất hiện những biểu hiện muốn tìm “thần”, “Chúa”, “Trời”, “cái hích của Thượng đế”... trong nhận thức và hành động của trí thức, đặc biệt là trong những luận giải về mối quan hệ giữa đời sống tâm linh và thực tiễn cuộc sống thường nhật.
Để phát triển tư duy lý luận khoa học của đội ngũ trí thức hiện nay, bên cạnh việc trang bị hệ thống, toàn diện, sâu sắc kiến thức khoa học chuyên ngành thì việc tiếp tục trang bị thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng làmcơ sở lý luận, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đội ngũ trí thức hiện nay có vai trò hết sức quan trọng. Sự vững vàng trên lập trường của thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và lý luận khoa học chuyên ngành không chỉ là sơ sở quan trọng để xua tan những hoài nghi, dao động thiếu luận cứ khoa học, những ý tưởng muốn “ tìm thần”, “ tạo thần”, những lập luận máy móc, giáo điều trong khoa học, mà còn là cơ sở để củng cố lòng tin vào các lý luận khoa học đã được đúc rút, giải đáp những hoài nghi khoa học trên cơ sở thực tiễn đời sống...
Ba là, nâng cao chất lượng phản biện khoa học trong các kết quả nghiên cứu và hoạt động của đội ngũ trí thức.
Phản biện khoa học không phải là vấn đề mới mẻ trong khoa học và trong hoạt động của đội ngũ trí thức. Những năm qua đã có rất nhiều những phản biện khoa học trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã đạt được cả về “ tâm”, “ tầm”. Những kết quả đó đã góp phần “lật tẩy” được nhiều những kết quả nghiên cứu mang tính áp đặt, giáo điều, máy móc, hời hợt, cẩu thả, xa lạ với đời sống thực tiễn. Song, vẫn còn không ít những phản biện khoa học không chỉ thiếu cái “tâm”, thấp  về “tầm” mà còn bị lệch “trục” chủ đạo. Điều này không chỉ làm cho các kết quả nghiên cứu khoa học và hoạt động của đội ngũ trí thức không những không xác định được giá trị thực của nó mà còn là mảnh đất tốt cho tệ quan liêu, kiêu ngạo, lười biếng, tùy tiện, vô trách nhiệm... tồn tại trong đội ngũ trí thức.
Nhiều ý kiến cho rằng, nguyên nhân của những điểm mạnh, điểm yếu trong các phản biện khoa học có rất nhiều, song, nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là ở cái “tâm” của người trí thức. Vì vậy, để nâng cao chất lượng phản biện khoa học hiện nay, một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải tạo và giữ được cái “tâm” của đội ngũ trí thức luôn trong sáng. Để có được cái “tâm” sáng thì đội ngũ trí thức phải không ngừng được giáo dục, được tiếp cận và chọn lựa các giá trị của cuộc sống, đặc biệt là các giá trị của lao động trí óc. Khi trí thức tự giác nhận thức được và hành động theo chân giá trị của lao động trí óc thì đó cũng là lúc cái “tâm” được tỏa sáng trong mọi nhận thức và hành động.
Có được cái “tâm” sáng đã khó, việc  gìn giữ được cái “tâm” luôn sáng lại khó hơn gấp nhiều lần. Trong thực tế người ta có thể viện ra hàng trăm ngàn lý do để biện minh cho sự vẩn đục của lương tâm. Nhưng điều không thể phủ nhận được là việc nhận thức và lý giải các quan hệ lợi ích là cái sâu xa nhất, trực tiếp nhất quyết định tới sự giữ gìn cái “tâm” sáng.
Để kết luận quan điểm của mình, Ph.Ăng-ghen đã dẫn nhận xét của Moóc-gan: “...lợi ích của xã hội phải tuyệt đối cao hơn lợi ích cá nhân và cần phải tạo ra những mối quan hệ công bằng và hài hoà giữa hai lợi ích đó”[8].  Khi quan hệ lợi ích bị nhận thức và giải quyết sai lệch thì tự khắc những lập luận phản biện trở nên vô hồn, gượng gạo, dần tự đánh mất vai trò phản biện của mình. Nhận thức và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích thì những lập luận phản biện khoa học sẽ thấm đượm cả lý và tình, toát lên cái “hồn” sáng trong, không vụ lợi, không định kiến, không mặc cảm, sẽ làm cho thói ích kỷ, kiêu ngạo, vụ lợi, bon chen... thấy nhỏ bé trước cái “ tâm” sáng trong của những lập luận phản biện...  Với cái liêm, sỉ của kẻ sĩ sẽ làm cho thói ích kỷ, kiêu ngạo, vụ lợi, bon chen... phải tự tìm lời răn và tự bốc thuốc chữa bệnh cho chính sự tồn tại của mình.
Bốn là, xây dựng tác phong làm việc khoa học cho đội ngũ trí thức.
Tác phong làm việc khoa học phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, khoa học của đội ngũ trí thức. Có rất nhiều tiêu chí đánh giá tác phong làm việc khoa học của đội ngũ trí thức, trong đó chất lượng, hiệu quả công việc là một trong những tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác phong làm việc khoa học của đội ngũ trí thức. Tác phong làm việc “sớm vác ô đi, tối vác về”, quan liêu, gia trưởng, đặc biệt là sự vô cảm đang tồn tại trong rất nhiều trí thức, nhất là ở những trí thức có chức quyền trong khu vực hành chính sự nghiệp của Nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng trên có rất nhiều, trong đó không thể không kể đến nguyên nhân nhu cầu công việc và sự mô phạm ngay trong đội ngũ trí thức.
Để khắc phục tác phong, lề lối làm việc trên đây, trước hết phải quan tâm, giải quyết nhu cầu được làm việc, được lao động, được cống hiến một cách phù hợp của trí thức đối với đất nước. Có việc làm và việc làm phù hợp với bản thân trí thức sẽ là động thúc đẩy sự say mê nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo không kể thời gian và năm tháng, không kể khó khăn, trở ngại... Sự mô phạm về tác phong, lề lối làm việc của cấp trên với cấp dưới là một tấm gương trực tiếp và hiệu quả nhất đối với tác phong, lề lối làm việc của cấp dưới. Sự chấp hành tự giác kỷ cương, quy định của cơ quan, tổ chức của cấp dưới như là một hiệu ứng ngược tác động mạnh mẽ đến sự mô phạm của cấp trên. Sự mô phạm hài hòa trên - dưới tạo nên môi trường văn hóa mà ở đó những tệ vô cảm, hách dịch, cầu an, hưởng lạc, tự ti, mặc cảm, được chăng hay chớ... sẽ trở nên lạc lõng và cùng với thời gian nhất định nó sẽ bị lịch sử bỏ qua.
Năm là, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ trí thức thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có tư duy sáng tạo và năng lực làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại.
Đội ngũ trí thức là vốn quý của Đảng, của dân tộc ta. Vì vậy, cần phải chăm lo bồi dưỡng, nuôi dưỡng hoài bão khoa học, có ý chí, tình cảm, năng lực sáng tạo, tính tự chủ, tự tin, tự trọng, độc lập, thực sự là lực lượng nòng cốt đi đầu trong xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ cuả đất nước. Do đó, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức. Làm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng và mỗi cá nhân từng trí thức nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.  Cần phải có chiến lược phát hiện, nuôi dưỡng, đào tạo và trọng dụng nhân tài. Theo đó, trong thời gian tới cần phải có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ trẻ có tài năng, cán bộ khoa học công nghệ và các chuyên gia đầu ngành của đất nước.
Sáu là, bổ sung hoàn thiện chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với lao động trí thức.
Chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần hợp lý, xứng đáng với lao động trí óc của trí thức sẽ tạo động lực để trí thức hăng hái cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nếu các chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần không thoả đáng, lao động của trí thức không được coi trọng thì không những không tạo ra động lực làm việc mà còn dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”. Đảng ta xác định: “... Rà soát các chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của mình”[9]. Đương nhiên việc đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần không đồng nghĩa với việc ưu tiên, ưu đãi, đòi hỏi thái quá mà ở sự đánh giá đúng giá trị của sản phẩm lao động trí óc do trí thức tạo ra cho xã hội. Vấn đề đặt ra hiện nay là bổ sung đổi mới chính sách khen thưởng đối với trí thức, tôn vinh những người có tâm huyết, tài năng, có các chế độ quy định bảo vệ quyền tác giả và quyền sở hữu trí tuệ của trí thức, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi để trí thức hướng hoạt động sáng tạo của mình vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến ở đội ngũ trí thức nước ta hiện nay vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật để góp phần xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh. Phải coi đây là một hướng ưu tiên, một yếu tố đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế tri thức, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 





[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, H. 2008, tr.32.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, tr.203.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 6, tr.542.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 6, tr. 542.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr.235.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr. 224.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.35.
[8] C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.1995, tr.265.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.94.

BẢN LĨNH VĂN HÓA VIỆT NAM TRƯỚC ĐÒI HỎI CỦA DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI



Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam ta luôn gắn liền với quá trình giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong lịch sử giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, dân tộc Việt Nam luôn thể hiện bản lĩnh vững vàng trước sự du nhập của những trào lưu văn hoá ngoại lai. Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hoá ngày càng trở nên sâu rộng, bản lĩnh văn hoá Việt Nam đang phải đối mặt trực tiếp với những thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trước những yêu cầu của dân tộc và thời đại, đặc biệt là trong xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, việc xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc phát huy sức mạnh văn hoá, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bản lĩnh của một nền văn hoá là tổng hợp toàn bộ những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động của các nền văn hoá khác trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hoá thiếu bản lĩnh thì dễ bị đánh mất bản sắc dân tộc. Bản sắc văn hoá là hồn dân tộc và do vậy, mất bản sắc văn hoá chẳng khác nào một người không còn thần sắc. Phát huy bản lĩnh văn hóa Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa, chính là việc nuôi dưỡng và bồi đắp sức sống cho những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trước sự tác động đa chiều của thời đại.
Việt Nam có lịch sử phát triển văn hoá lâu đời. Lịch sử đó thống nhất với lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước. Với đặc thù tự nhiên, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu Bắc – Nam, Đông – Tây, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp thu và đã tiếp thu được nhiều giá trị văn hoá bên ngoài để làm giàu văn hoá dân tộc. Có thể nói, “đầu vào” của văn hoá Việt Nam rất đa dạng, nhưng “đầu ra” lại rất đặc sắc Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam có nhiều dấu ấn, giá trị văn hoá đặc sắc của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, thậm chí cả của phương Tây. Điều đó là do sự tiếp thu có nguyên tắc - không đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam. Các giá trị văn hoá bên ngoài rất đa dạng, phong phú, nhưng khi vào Việt Nam đều được Việt Nam hoá. Chẳng hạn, từ bi của Phật giáo khi xâm nhập vào Việt Nam đã trở thành đại từ, đại bi của Việt Nam; cái hùng, cái nhân của Nho giáo đã trở thành cái đại hùng, đại nhân của Việt Nam (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” - Nguyễn Trãi).  
Cái đặc sắc và bản lĩnh văn hoá Việt Nam luôn dựa trên sự lựa chọn lối ứng xử “hài hoà” của chủ thể văn hoá. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà trong xã hội được biểu hiện ở tất cả các mặt, các lĩnh vực của cuộc sống và trên tất cả các cấp độ, từ cách đối nhân xử thế hàng ngày đến nếp sống, lối tư duy, quan niệm về đạo lý làm người. Do ứng xử hài hoà, văn hoá Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. 
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chưa bao giờ văn hoá Việt Nam có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều nền văn hoá, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của văn hoá như hiện nay. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải được củng cố vững vàng trong tình hình mới. Nội dung quan trọng nhất để xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam là tuân thủ quy luật đó một cách linh hoạt và sáng tạo. Do vậy, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải có chiến lược phát triển văn hoá một cách khoa học, kết hợp được và thể hiện được sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với tính linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng. Đây là hai mặt của một vấn đề. Nếu vận dụng một cách khoa học, chúng sẽ trở thành tiền đề, động lực phát triển cho nhau; còn nếu vận dụng một cách thiếu khoa học, chúng sẽ cản trở sự phát triển của nhau. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc và sự linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng đó còn phải được thẩm thấu vào tiềm thức của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ từ trên xuống dưới, thậm chí ở mỗi con người cụ thể.
Bản lĩnh của một nền văn hoá dựa trên sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài trong quá trình phát triển và trong quan hệ giao lưu, hội nhập. Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam luôn có sức đề kháng to lớn. Nhờ đó, văn hoá Việt Nam đã tạo dựng được bản lĩnh vững vàng trong giữ gìn bản sắc dân tộc. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn hoá bên ngoài, văn hoá Việt Nam đã không bị đồng hoá, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn hoá Việt Nam còn có cội nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không chịu khuất phục trong mỗi con người Việt Nam. Cội nguồn sức đề kháng của văn hoá Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hoá về văn hoá trong suốt thời gian đô hộ cả ngàn năm của phong kiến phương Bắc, thậm chí cả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới hơn một trăm năm vẫn không làm phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc. Dân tộc ta, dù bị thất bại về quân sự nhiều lần, nhưng nhờ cội nguồn sức mạnh đó, cuối cùng vẫn vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
Hiện nay, sức đề kháng trong bản lĩnh văn hoá Việt Nam lại một lần nữa đứng trước thử thách của sự xâm nhập với quy mô lớn của các giá trị văn hoá bên ngoài. Sự xâm nhập đó không chỉ giới hạn ở quy luật giao lưu, hội nhập văn hoá, mà còn ở chính sách xâm lược về chính trị, quân sự của các thế lực thù địch. Do vậy, giờ đây, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có chiến lược nâng cao sức đề kháng của văn hoá Việt Nam một cách phù hợp để nâng cao bản lĩnh văn hoá Việt Nam – một vấn đề sống còn của dân tộc ta hiện nay.
Nâng cao sức đề kháng của nền văn hoá dân tộc ta hiện nay là quá trình làm cho cơ thể văn hoá Việt Nam được “miễn dịch” với mọi tác động của các phản giá trị đang làm băng hoại văn hoá. Sức đề kháng đó chỉ có thể có được khi các yếu tố bên trong cấu thành nền văn hoá Việt Nam cùng phát triển và tác động đồng thuận theo định hướng của Đảng ta. Như vậy, Đảng phải tự đổi mới ngang tầm nhiệm vụ để thật sự là đạo đức, là văn minh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, đủ sức lãnh đạo xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay. Mặt khác, mỗi con người Việt Nam phải thật sự là một chủ thể kiên cường trước sự lôi kéo, mua chuộc của những phản văn hoá. Quá trình nâng cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam cần trang bị cho mỗi người khả năng nhận thức và tự hào về lịch sử phát triển văn hoá dân tộc với tất cả những giá trị của truyền thống oai hùng trong dựng nước đi đôi với giữ nước. Đồng thời, cần phải tạo ra tâm lý biết hổ thẹn với non sông đất nước khi Tổ quốc bị xâm lăng. Trong hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam, tội lớn nhất là phản bội dân tộc, “rước voi về giày mả tổ”, “cõng rắn cắn gà nhà”. Hiện nay, tệ sùng bái văn hoá phương Tây, quay lưng lại quá khứ, thiếu trách nhiệm với hiện tại và mơ hồ về tương lai dân tộc cần phải được lên án mạnh mẽ và đào thải ra khỏi đời sống xã hội.
Để bản sắc văn hóa dân tộc trở thành “bộ lọc” tốt, phải xác định rõ ranh giới giữa tinh hoa văn hóa và các yếu tố lạc hậu trong văn hóa truyền thống. Tinh hoa văn hóa có tính bền vững truyền từ đời này sang đời khác, sống mãi với một dân tộc. Nhưng do sự hạn chế có tính lịch sử, văn hóa quá khứ chứa đựng những yếu tố lạc hậu, trở thành vật cản của sự phát triển xã hội. Thực tế cho thấy, một khi buông lỏng quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, thì lập tức mặt trái của cơ chế thị trường tạo điều kiện cho những mặt trái của văn hóa quá khứ, (như hủ tục, lệ làng, mê tín dị đoan, tư duy tiểu nông, lối sống lạc hậu…) phát triển nhanh chóng. Cùng nằm trong khuôn khổ của văn hóa quá khứ, nên việc tìm ra ranh giới này không phải là đơn giản, dễ nhầm lẫn hoặc rơi vào máy móc, làm tổn hại đến giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Vì thế, việc xác định ranh giới đó là rất cần thiết, nhằm góp phần làm sáng rõ giá trị đích thực của bản sắc văn hóa Việt Nam trong mọi thời đại.
Nâng cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam, chúng ta còn phải đào thải những phản giá trị nảy sinh từ chính mặt trái của kinh tế thị trường để xây dựng cơ thể văn hoá Việt Nam không còn những nhân tố làm băng hoại đạo đức, lối sống, suy đồi về văn hoá. Một cơ thể văn hoá cường tráng sẽ không còn những “vi rút” gây bệnh từ bên trong. Sự xâm nhập những phản giá trị từ bên ngoài bao giờ cũng thông qua những phản giá trị nảy sinh từ bên trong. Do vậy, sự thống nhất giữa phòng ngừa, đào thải những phản giá trị ở bên trong với đẩy lùi sự xâm nhập những phản giá trị từ bên ngoài cần được coi là giải pháp hữu hiệu trong xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam hiện nay.
Một dân tộc chỉ biết mỗi “làm giàu” là dân tộc thiếu chiều sâu. Mục tiêu mà Đảng ta đề ra là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là sự kết hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Không thể xây dựng một xã hội văn minh với nền kinh tế lạc hậu, thấp kém; ngược lại, có một nền kinh tế phát triển nhưng thiếu văn minh thì không phải là một xã hội tiến bộ. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để kinh tế và văn hóa phát triển hài hòa trong sự phát triển của xã hội, để kinh tế không phá hoại văn hóa và văn hóa không cản trở sự phát triển kinh tế.
Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam hiện nay, chúng ta không thể không  phát triển tư chất, khí phách, cốt cách của chủ thể văn hoá trong tư thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập. Bởi lẽ, bản lĩnh của một nền văn hoá bao giờ cũng biểu hiện tập trung, sâu sắc ở tư chất, cốt cách và khí phách của chủ thể văn hoá. Mỗi dân tộc đều có tư chất, khí phách riêng trong quan hệ, giao lưu với văn hoá nước ngoài. Văn hoá Việt Nam luôn thể hiện tư chất, cốt cách, khí phách đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Mặc dù là một nước nhỏ bên cạnh nước lớn, trong thế liên tục phải chống lại sự đồng hoá văn hoá, nhưng dân tộc Việt Nam đã hình thành cho mình tư thế hiên ngang, khí phách anh hùng, không chịu khuất phục. Trước sự phát triển rực rỡ của nền văn hoá Hán, nhiều dân tộc xung quanh, mặc dù chiến thắng về quân sự, nhưng lại thất bại về văn hoá, bị đồng hoá về văn hoá và trở thành bản sao của văn hoá Hán. Thế nhưng, cũng trong bối cảnh đó, văn hoá Việt Nam vẫn luôn khẳng định được bản sắc của mình, vẫn giữ được cốt cách, tư chất và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động như hiện nay, dân tộc Việt Nam với tư cách một chủ thể văn hoá càng phải thể hiện rõ cốt cách, tư chất, khí phách của mình để bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam trước những khó khăn, phức tạp mới trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu. Để thực hiện điều này, trong bối cảnh mới, chúng ta cần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc… để hun đúc khí phách, cốt cách và tư chất con người Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng. Đồng thời, nêu cao tính chủ động để sẵn sàng giao lưu, hội nhập, tiếp thu những giá trị văn hoá nhân loại với tư thế, tư chất và khí phách con người Việt Nam. 
Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, chúng ta cũng cần phải gia tăng hàm lượng trí tuệ trong bản sắc văn hoá Việt Nam. Văn hoá và văn minh không đồng nhất, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiện nay, sự phát triển với tốc độ vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là kinh tế tri thức đang mở ra một môi trường cạnh tranh và chạy đua về trí tuệ gay go, phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc và tác động sâu sắc đến các nền văn hoá. Trong bối cảnh đó, sự biểu đạt, tiếp thu và lan toả những giá trị của một nền văn hoá thể hiện bản lĩnh vững vàng của chủ thể văn hoá một dân tộc cũng cần phải chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao. Trong thế ứng xử hiện nay, bản lĩnh của một nền văn hoá không thể có thế mạnh, nếu không có sự gia tăng về hàm lượng trí tuệ.
Để bản lĩnh văn hoá Việt Nam mang tầm thời đại, chúng ta không thể không nâng cao hàm lượng trí tuệ cho nó. Nâng cao hàm lượng trí tuệ trong xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải bắt đầu từ giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí. Chất lượng và hiệu quả của việc nâng cao dân trí sẽ đem lại cho con người Việt Nam khả năng phân biệt được cái giá trị, cái phản giá trị; cái cần tiếp thu, cái không cần tiếp thu của văn hoá ngoại lai. Trên cơ sở nâng cao trình độ khoa học về mọi mặt, họ sẽ tự khẳng định được tính chủ thể và bản lĩnh của một chủ thể văn hoá tích cực, nhờ đó bản lĩnh văn hoá Việt Nam trở nên thực sự vững vàng trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay. V.I.Lênin đã nói: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người ta lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”[1].
 Xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử hiện nay phải tạo thế chủ động trong phát triển văn hoá và trong giao lưu, hội nhập. Xu thế giao lưu, hội nhập có tính chất toàn cầu hiện nay là quy luật phát triển của nhân loại và của từng dân tộc. Một nền văn hoá có bản lĩnh không thể ở thế bị động trong xu thế giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác. Tạo thế chủ động trong xây dựng bản lĩnh nền văn hoá Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ bản sắc dân tộc và sự phát triển của văn hoá Việt Nam. Yêu cầu đó đòi hỏi phải có sự kết hợp một cách hợp lý giữa chiến lược phát triển lâu dài với chủ trương, biện pháp trước mắt. Quá trình giao lưu, hội nhập trong xu thế hiện nay luôn đòi hỏi chúng ta phải bảo đảm sự hài hoà giữa giữ vững nguyên tắc với phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi chủ thể ở các cấp độ khác nhau. Tính nguyên tắc trong việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc để không trở thành bản sao văn hoá của dân tộc khác là quán triệt quan điểm giai cấp của Đảng, tạo thế chủ động và tích cực tham gia vào xu thế chung hiện nay, đồng thời cần khắc phục tâm lý lo ngại hoặc tham gia giao lưu, hội nhập một cách vô nguyên tắc.
Trước những yêu cầu ngày càng cao của dân tộc và thời đại, mà trực tiếp là trong xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam vững vàng là vấn đề có tính sống còn trong việc bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta xác định, phát triển văn hoá với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, cho nên, cần “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá…, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”[2]. Tư tưởng chỉ đạo này cần được quán triệt sâu rộng và đi vào phong trào quần chúng để mỗi con người, mỗi tổ chức và cả dân tộc ta luôn là chủ thể văn hoá có bản lĩnh vững vàng trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay.







[1] V.I.Lênin. Toàn tập, t.23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.57.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.106.

PHƯƠNG PHÁP THỰC TIỄN TRONG LUẬN GIẢI CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH




Mở đầu: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá đúng, tư duy đúng và sử dụng đúng vai trò của thực tiễn đời sống xã hội để luận giải mọi vấn đề xã hội. Ở Người, mỗi lời nói, mỗi câu mỗi chữ đều được rút ra từ thực tiễn, là sự tổng hợp từ thực tiễn sinh động phong phú. Việc đánh giá đúng đắn vai trò thực tiễn, cách thức tư duy khoa học về thực tiễn và phương pháp sử dụng thực tiễn như một phương tiện để giải thích mọi vấn đề của chính thực tiễn đời sống xã hội của Hồ Chí Minh là một phương pháp khoa học đích thực, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau:
1. Xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng sự thực, tìm lời giải cho các vấn đề xã hội từ chính thực tiễn đời sống xã hội.
Thực tiễn theo Hồ Chí Minh trước hết là hệ thống sinh hoạt, hoạt động của xã hội: “Ngoài hoạt động sản xuất, sự thực hành của người ta còn có: giai cấp đấu tranh, sinh hoạt chính trị, hoạt động khoa học và nghệ thuật, v.v.. Tóm lại, tất cả mọi ngành hoạt động trong xã hội đều do người của xã hội tham gia. Vì vậy, ngoài sinh hoạt vật chất, người ta còn do sinh hoạt chính trị, vǎn hoá (dính dáng khǎng khít với sinh hoạt vật chất) mà hiểu biết các thứ quan hệ giữa người với người”[1]. Thực tế xã hội đối với người cán bộ cách mạng là những vấn đề cần phải giải quyết, tháo gỡ vì sự phát triển tiến bộ của xã hội: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới”[2].
Từ những phân tích của Hồ Chí Minh cho chúng ta những ý tưởng quan trọng. Thực tiễn đời sống xã hội chính là sự tổng hợp những hoạt động xã hội, những quan hệ xã hội của những con người sống trong xã hội. Thực tiễn đời sống xã hội có vô vàn hiện tượng xã hội, vấn đề xã hội, hiện tượng xã hội đa dạng phong phú, vai trò của từng hiện tượng xã hội hoàn toàn khác nhau. Có những hiện tượng xã hội mang tính tích cực, đóng vai trò độc lực xã hội, ngược lại có hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội. Song chỉ những vấn đề xã hội, hiện tượng xã hội nào đang hiện diện hàng ngày mà biểu hiện của nó là “những vấn đề cần tháo gỡ” là “những mâu thuẫn của sự vật hiện tượng” mới là đối tượng trực tiếp cần nghiên cứu. Vấn đề xã hội chỉ thực sự là vấn đề cần nghiên cứu, tháo gỡ khi nó được nhận diện trên thực tế chứ không phải là vấn đề xã hội phát sinh từ sự tưởng tượng của nhà nghiên cứu. Tức là, nghiên cứu xã hội phải nghiên cứu những vấn đề có thực trong đời sống xã hội, nhưng không phải là sự thật chung chung hoặc “trần trụi”, mà lại là sự thật, mà ở đó lựa chọn đối tượng nghiên cứu có lợi cho sự ổn định, phát triển xã hội. “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”[3].
Nghiên cứu các vấn đề xã hội, nguyên tắc quan trọng đầu tiên là phải tôn trọng sự khách quan, tôn trọng sự thật, khi phản ánh bất kỳ một vấn đề xã hội, hiện tượng xã hội nào, Người yêu cầu: “Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái tốt, thì phải có chừng mực, chớ phóng đại. Có thế nào nói thế ấy”[4]. Hay khi lập kế hoạch giải quyết một vấn đề xã hội thì phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể. Kế hoạch phải chắc chắn, cân đối. Tuyệt đối không đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế. Nghiên cứu phản ánh những vấn đề có thật, phản ánh đúng sự thật, tôn trọng sự thật “có thế nào nói thế ấy”, không tô hồng bôi đen mới có thể hiểu được bản chất của mọi vấn đề thực tiễn - đó là những quy tắc quan trọng đầu tiên trong quá trình phân tích các vấn đề xã hội.
Tôn trọng sự thật đòi hỏi quá trình nghiên cứu phải hết sức tỷ mỷ, kỹ càng. Việc báo cáo phải thật thà, gọn gàng, rõ ràng, thiết thực. Những tài liệu và con số phải phân tích và chứng thực. Nếu “không biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn”. Tôn trọng sự thật phải dày công tìm hiểu sự thật, phải lăn lộn với đời sống xã hội, Người khẳng định: “Muốn hiểu biết một việc gì, một vật gì, thì phải tham gia vào cuộc đấu tranh và biến đổi của việc ấy, vật ấy. Có như thế mới thấy được hiện tượng của nó, và tiến tới hiểu biết bản chất của nó. Đó là con đường thực tế, ai muốn hiểu biết cũng phải trải qua”[5]. Khi phân tích mọi vấn đề xã hội, Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò định hướng, soi đường của lý luận, đồng thời Người luôn coi trọng thực tiễn và sử dụng đúng thực tiễn như một “phương tiện” để cắt nghĩa luận giải vấn đề xã hội. Theo Người, mọi lời giải đáp cho các vấn đề xã họi của thực tế Việt Nam phải tìm từ chính thực tiễn Việt Nam.
Tôn trọng thực tiễn, tìm lời giản cho các vấn đề xã hội phải từ chính thực tiễn đời sống xã hội, đây là một quy tắc quan trọng mà Người đã trải nghiệm bằng chính cuộc đời hoạt động cách mạng. Đặc biệt trong những năm đầu thế kỷ XX, sau gần mười năm bôn ba khắp các châu lục, làm nhiều nghề khác nhau, tìm hiểu nhiều nền văn hóa, tiếp xúc với nhiều hạng người, Hồ Chí Minh đã rút ra được những kết luận quan trọng về xã hội loài người, về chủ nghĩa đế quốc, về con đường cứu nước. Không phải qua sách vở, mà qua thực tiễn cuộc sống, Người cho rằng: dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản. Từ đất nước mình và qua nhiều nước thuộc địa, Người thấy rõ, chủ nghĩa đế quốc đâu đâu cũng tàn ác dã man, còn nhân dân lao động ở đâu cũng cực khổ vô cùng. Và “muốn cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Đánh giá đúng vai trò của thực tiễn, của hoạt động thực tiễn cho nên trong quá trình chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ phải kết hợp đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Người thường xuyên nhắc nhở phải đề phòng cách làm rập khuôn giáo điều, cần xuất phát từ thực tế để tìm con đường đi riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm của Việt Nam. Đặc biệt khi “đứng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy chúng ta có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm đó một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[6]. Chính vì thế, nếu không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Cho nên, mỗi công tác phải hợp với từng nơi, từng lúc, từng hoàn cảnh. Mọi lời giải đáp cho các vấn đề xã hội chỉ có thể đúng đắn và phù hợp khi tìm tòi từ chính thực tế đời sống xã hội. Xã hội tồn tại và phát triển theo những quy luật riêng của nó, nghiên cứu xã hội là quá trình tìm hiểu, phát hiện những quy luật vận hành của xã hội, muốn tìm những giải pháp đáp án đúng đắn để giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh, không thể không nghiên cứu, tìm lời giải từ chính thực tế đời sống xã hội.
Như vậy, nghiên cứu xã hội, phải hướng vào nghiên cứu những vấn đề xã hội cấp bách, có thật trong đời sống xã hội. Nghiên cứu phải tôn trọng sự thật, để phản ánh đúng bản chất của hiện tượng xã hội, vấn đề xã hội. Mọi vấn đề xã hội không thể luận giải đơn thuần bằng những biện lý cao sang mà cái thuyết phục nhất, hợp lý nhất là những lời giải đáp tìm tòi từ chính thực tiễn đời sống xã hội.
2. Giải thích, chứng minh một hiện tượng xã hội bằng nhiều hiện tượng xã hội thực tế và phân tích mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội để vạch rõ bản chất xã hội của vấn đề nghiên cứu.
 Một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là mọi sự vật, hiện tượng có liên hệ mật thiết với nhau, ràng buộc nhau; do vậy phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong sự ràng buộc lẫn nhau đó. Trong các bài nói, bài viết của Người thể hiện rất rõ nguyên lý cơ bản trên.
Trước hết khi phân tích hiện thực xã hội, Người thường sử dụng nhiều hiện tượng xã hội có thật để làm rõ bản chất của một hiện tượng xã hội cần luận giải. Khi nói về vấn đề cán bộ. Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “là dây chuyền của bộ máy”. Cắt nghĩa thế nào là một người cán bộ tốt? Người khẳng định: cán bộ tốt phải “vừa hồng vừa chuyên”, “vừa có đức vừa có tài”, cán bộ tốt phải có đầy đủ: “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Biểu hiện trong thực tế, cán bộ tốt là: “Đi đến nơi nào có cán bộ tốt thì cảnh tượng tốt bày ngay ra trước mắt: Đồng bào tản cư đi qua đó, đều được giúp đỡ. Bộ đội đóng quân ở đó, hoặc đi qua đó, được úy lạo. Ngày nào cũng thấy dân quân và tự vệ tập tành... Nói tóm lại: nơi nào cán bộ tốt, thì cả vùng đó hoạt động như một bộ máy. Và cả vùng đó tỏ ra một bầu không khí hăng hái, vui vẻ”[7].
Mọi vấn đề xã hội, hiện tượng xã hội đều phát sinh và gắn bó với đời sống xã hội, đều có “dấu ấn” của nó trong thực tiễn xã hội. Cách phân tích vấn đề của Người gợi mở một phương pháp xem xét thực tiễn: muốn hiểu sâu sắc một vấn đề xã hội, cần phải tìm hiểu những vấn đề xã hội khác có liên quan tới nó. Nghiên cứu các hiện tượng xã hội - theo cách của Hồ Chí Minh - không thể dừng lại ở việc mô tả hiện tượng xã hội đang nghiên cứu đơn thuần về mặt lý thuyết mà nó phải được mô tả bằng những chất liệu thực tiễn, tức là bằng những dấu hiệu xã hội thực tiễn (biểu hiện là hệ thống hoạt động xã hội, quan hệ xã hội, tương tác xã hội, các nhóm xã hội). Có như vậy, người ta mới có thể thấy được quy mô, hình thức biểu hiện, vận hành của hiện tượng xã hội đó trong thực tế.
Quá trình luận giải các vấn đề xã hội, rất nhiều lần Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt phương pháp phân tích nhân quả giữa các hiện tượng xã hội, để rút ra kết luận. Việc Hồ Chí Minh phân tích vấn đề giảm tô cho nông dân, là một biểu hiện mẫu mực về phân tích mối quan hệ nhân quả và phân tích chính sách xã hôi: “... Triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức. Đó là một việc rất công bằng và hợp lý... Nông dân ta có công với Tổ quốc thì triệt để giảm tô, là bù đắp lại phần nào cho công lao của nông dân... Có lợi cho những nhà công nghệ, tiểu công nghệ và thương nghiệp, vì nông dân sinh hoạt khá, thì sẽ mua nhiều hàng, công nghệ và thương nghiệp sẽ càng phát triển. Có lợi cho những người trí thức, nhà văn hóa. Vì nông dân “bụng no thì lo học” và văn hóa nhân dân ngày càng thêm phong phú. Có lợi cho quân đội. Vì sẽ đoàn kết được chặt chẽ đại đa số nông dân và củng cố thêm công nông liên minh là nền tảng của mặt trận”[8]. 
Các hiện tượng xã hội tồn tại trong đời sống xã hội đa dạng và phong phú, đối với người bình thường, tưởng như chúng tồn tại sự ngổn ngang, rối loạn vô phương hướng. Nhưng với một tác phong sâu sát thực tiễn, sự hiểu biết thấu đáo mọi vấn đề, Người đã vạch rõ cơ chế liên hệ giữa các vấn đề xã hội, không phải là những liên hệ trìu tượng mà là những liên hệ có thể quan sát được. Không có cách thuyết phục nào hơn là dùng chính những quan hệ nhân quả thực tiễn ấy để khẳng định hay kết luận về một vấn đề xã hội.
Xã hội tồn tại chằng chịt các mối quan hệ xã hội của chính những con người xã hội và các nhóm xã hội trong xã hội. Mọi hiện tượng xã hội bao giờ cũng gắn với một nhóm xã hội, một cộng đồng xã hội nhất định, không bao giờ nó là của riêng của một cá nhân nào. Mọi hiện tượng xã hội xẩy ra trong đời sống thực tiễn đều có nguyên nhân từ chính xã hội, cắt nghĩa các vấn đề thực tiễn, nếu chỉ dựa vào lý thuyết thì giỏi lắm cũng chỉ dừng lại ở mức độ phỏng đoán, còn nếu dựa vào bằng cứ thực tế thì hoàn toàn có thể chứng minh được. Do vậy luận giải vấn đề xã hội không thể thoát ly đời sống xã hội, phải phát hiện được các mối quan hệ nhân quả giữa chúng, phải tìm được các “bằng cứ” xã hội (càng nhiều càng tốt) để suy luận, để đưa ra kết luận đúng đắn.
3. Phân tích các vấn đề xã hội của một nhóm xã hội phải gắn chặt với thực tế đời sống dân sinh, đặc trưng xã hội của nhóm xã hội đó, để có những luận giải đúng, trúng, sát thực tiễn.
Từ những vấn đề lớn lao của cách mạng đến những vấn đề thường nhật hàng ngày, với cách lý giải của Người thì dù là trí thức hay là nông dân, người dân ở những bản vùng cao hay ở một làng chài ven biển đề có thể hiểu được và làm theo được. Có hiểu được dân thì mới giúp đỡ được dân, có hiểu được dân thì mới có thể viết cho dân dễ hiểu, phân tích cho dân dễ tin, dễ thấy làm cho dân có thể làm theo. Bởi, “trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớn chừng chừng, có lớp lạc hậu”[9]. Dân cư đa dạng về cơ cấu, do vậy cách lý giải phân tích vấn đề xã hội không thể đánh đồng. Khi viết hay nói chuyện với một nhóm dân cư cụ thể, Hồ Chí Minh thường sử dụng những đặc điểm về cấu trúc, quan hệ xã hội, hoạt động xã hội, mô hình văn hóa của nhóm dân cư đó làm phương tiện để phân tích luận giải vấn đề của chính nhóm đó.
Thực tiễn đời sống xã hội luôn cụ thể nhưng sinh động, dễ thấy song khó kiểm tra, dễ hiểu nhưng khó khái quát, dễ thấy cái chung nhưng rất khó cắt nghĩa cho đúng, cho trúng cái riêng. Theo cách phân tích vấn đề của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy rằng: Muốn luận giải một vấn đề xã hội của một nhóm xã hội cho đúng cho sát thì phải bám vào thực tế đời sống của nhóm xã hội đó. Để từ chỗ phân tích các đặc trưng về cấu trúc, đặc thù trong các hoạt động xã hôi, quan hệ xã hội, đặc điểm văn hóa tìm ra những khác biệt xã hội. Phân tích chính xác những khác biệt xã hội để tìm ra những điểm tương đồng, tạo cơ sở cho sự đoàn kết, sự thống nhất hành động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Nghiên cứu các vấn đề xã hội của một nhóm xã hội cụ thể, không nên có một sự áp đặt hay sự đánh đồng, mà phải chính từ nội tình của từng nhóm xã hội tìm lời giải cho các vấn đề thực tiễn của chính nhóm đó. Cách làm riêng rất phong phú, nhưng đều phải thực hiện một mục đích chung là ổn định, tiến bộ xã hội.
Khi nói chuyện với các tầng lớp dân cư hay khi viết về các hiện tượng xã hội của các tầng lớp nhân dân, nhiều khi là của một tỉnh, một huyện hay có lúc là một làng, một bản, một nông trường một xí nghiệp, Hồ Chí Minh không bao giờ đề cập tới những chuyện xa xôi, những vấn đề chung chung ít nghĩa, mà Người đề cập ngay tới những vấn đề bức xúc hàng ngày của đời sống dân cư. Phân tích một vấn đề xã hội của một nhóm dân cư, Người luôn gắn với những vấn đề trọng yếu của đời sống dân sinh như việc ăn, ở, sản xuất, học tập, phòng chữa bệnh... Theo cách phân tích của Hồ Chí Minh, các vấn đề xã hội của từng nhóm dân cư rất cụ thể không bắt đầu từ việc phân tích các vấn đề xã hội của từng nhóm dân không thể không bắt đầu từ việc phân tích các vấn đề “cốt tử” ấy, cũng chính các vấn đề ăn, mặc ở, sản xuất, học hành... là cơ sở quy định mọi hoạt động, quan hệ xã hội của con người. Một vấn đề xã hội chỉ được nhận thức và giải quyết trên thực tế, khi nó tìm được “động lực” từ trong hệ thống các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội hàng ngày của mọi tầng lớp dân cư. Mọi cách lý giải, phân tích không tính đến việc phân tích đời sống sinh hoạt, sản xuất, văn hóa của đời sống dân sinh đều là những phân tích phi thực tế.
4. Diễn giải thuật ngữ khoa học bằng ngôn ngữ của đời sống xã hội, làm cho nó dễ hiểu, dễ nhớ.
Các vấn đề xã hội có tính trừu tượng rất cao, song qua cách phân tích của Hồ Chí Minh, nó luôn được cụ thể hóa, hiện thực hóa sinh động. Các khái niệm khoa học, thuật ngữ có tính khoa học trong các bài viết của Người luôn được diễn đạt bằng những ngôn từ của cuộc sống bằng những chất liệu của chính thực tế đời sống, cho nên mọi người dân rất dễ hiểu dễ nhớ. Một nhà báo Pháp đã nhận xét: “Không bao giờ ông tỏ vẻ thông thái, vốn rất rộng của ông. Ông thông thạo bảy thứ tiếng khác nhau và nói được rất nhiều tiếng thổ âm, trái lại ông chỉ dùng những câu nôm na, khiến cho một người dù quê mùa, chất phác nghe cũng hiểu ngay được”[10].
Nhiều khi chỉ bằng một vài từ hoặc một vài hình ảnh, Người có thể trình bày những vấn đề rất phức tạp: Nói về chủ nghĩa đế quốc, Người không luận giải dài dòng, mà dùng hình ảnh để vạch rõ bản chất: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[11]. Nói về mối liên hệ giữa hai mặt chính trị và quân sự trong xây dựng lực lưỡng vũ trang, Người khẳng định: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Viết về vai trò quần chúng nhân dân, Người nhấn mạnh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Lý giải về chủ nghĩa xã hội, Người diễn tả mộc mạc: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng, những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”... Đấy chính là điều để lý giải quan điểm của Người khi chủ trương: “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Cho nên một mặt Người phân tích các vấn đề xã hội bằng những ngôn từ giản dị, hình ảnh mộc mạc giúp mọi người dễ hiểu dễ nhớ. Mặt khác những hiện tượng có tính lý luận trìu tượng Người luôn cụ thể hóa hiện tượng đó bằng những hình anhr của thực tế.
Luôn luôn quy các khái niệm khoa học, các thuật ngữ về các hiện tượng có thật trong đời sống xã hội là một phương pháp phân tích được Hồ Chí Minh sử dụng trong rất nhiều bài viết, bài nói. Với mọi tầng lớp dân cư vào mọi thời đoạn của cách mạng, cách phân tích vấn đề của Người vừa có ý nghĩa to lớn trong cải tạo thực tiễn vừa có ý nghĩa về mặt phương pháp trong nghiên cứu xã hội. Đây là một sự gắn kết tuyệt vời giữa lý luận và thực tiễn, giữa đời sống tinh thần và đời sống vật chất, giữa nhận thức và hành động. Không có cái cốt vật chất, đời sống tinh thần không biểu hiện ra được, không gắn với thực tiễn đời sống xã hội, không có các hình ảnh thực tế, số liệu thực tế minh họa, mọi khái niệm khoa học chỉ dừng lại ở mặt câu chữ mà thôi, hoàn toàn bất lực, xa lạ trước thực tiễn xã hội.
Cách diễn giải các vấn đề xã hội, các khái niệm, thuật ngữ của Hồ Chí Minh là quá trình cụ thể hóa, thực tế hóa giúp cho mọi người định hình được công việc, định lượng được vấn đề, định danh được khái niệm, quan sát kiểm chứng được vấn đề lý luận trong đời sông xã hội.
KẾT LUẬN
Phương pháp thực tiễn Hồ Chí Minh là: Nghiên cứu các vấn đề xã hội phải là những vấn đề có thật trong thực tế, phải tôn trọng sự thật dùng thực tế chứng minh cho thực tế. Coi trọng vai trò định hướng của lý luận nhưng mọi lời giải đáp cho các vấn đề của cuộc sống phải tìm tòi từ chính thực tiễn đời sống xã hội. Luận giải các vấn đề xã hội phải có hệ thống chặt chẽ, tiếp cận nhiều chiều, sử dụng nhiều hiện tượng xã hội có thật để khẳng định một hiện tượng cần lý giải. Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng xã hội để rút ra kết luận có cơ sở vững chắc. Phân tích nghiên cứu hiện tượng xã hội của một nhóm xã hội nào thì dùng ngay đặc trưng cấu trúc, vị trí xã hội, quan hệ xã hội và mô hình văn hóa của nhóm đó để làm rõ vấn đề xã hội của chính nhóm xã hội đó. Diễn giải thuật ngữ khoa học bằng ngôn ngữ của đời sống xã hội, làm cho nó dễ hiểu dễ nhớ và có thể đo lường lượng hóa chính xác.
Tính khoa học, hiệu quả thực tế của phương pháp thực tiễn Hồ Chí Minh được minh chứng bằng chính những thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Người. Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, Đảng ta rút ra bài học: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết cảc vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Chinh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nghiệp vĩ đại, gương sáng đời đời”  Nxb ST, H, 1980.
2. Lê Duẩn: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta” Nxb ST, H, 1986.
3. Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh một con người một dân tộc một thời đại một sự nghiệp” Nxb ST, H. 1990.
4. Võ Nguyên Giáp: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam “ Nxb CTQG, H. 1997.
5. Trần Văn Giàu: “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” Nxb CTQG, H. 1997.
6. Nguyễn Việt Hồng: “Bác Hồ con người và phong cách” Nxb LĐ H, 1997. Nxb CTQG, H. 1998.
7. Đinh Xuân Lâm (chủ biên): “Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới” Nxb LĐ, H. 1998.
8. Phan Ngọc Liên: “Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động cách mạng” Nxb CTQG, H. 1999.


[1] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 6, tr.248.
[2] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 8, tr.497-498.
[3] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 8, tr.216.
[4] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 7, tr.118.
[5] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 6, tr.251.
[6] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 1, tr.XII.
[7] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 5, tr.139.
[8] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 7, tr.44-45.
[9] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 5, tr.296.
[10] Tuần báo Đây Paris ra ngày 18-6-1946.
[11] Hồ Chí Minh (2000), Sđd., tập 1. tr.298.