Lịch
sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam ta luôn gắn liền với quá trình
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Trong lịch sử giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc, dân tộc Việt Nam luôn thể hiện bản lĩnh vững
vàng trước sự du nhập của những trào lưu văn hoá ngoại lai. Hiện nay, xu thế mở
cửa, giao lưu, hội nhập văn hoá ngày càng trở nên sâu rộng, bản lĩnh văn hoá
Việt Nam đang phải đối mặt trực tiếp với những thách thức lớn, liên quan đến sự
sống còn của dân tộc. Trước những yêu cầu của dân tộc và thời đại, đặc biệt là
trong xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, việc xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt
Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc phát huy sức mạnh văn hoá, thực hiện thắng
lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bản lĩnh của một nền văn
hoá là tổng hợp toàn bộ những nhân tố thể hiện cốt cách, khí phách, tư chất và
sức mạnh khẳng định bản sắc dân tộc trước tác động của các nền văn hoá khác
trong giao lưu, hội nhập. Một nền văn hoá thiếu bản lĩnh thì dễ bị đánh mất bản
sắc dân tộc. Bản sắc văn hoá là hồn dân tộc và do vậy, mất bản sắc văn hoá
chẳng khác nào một người không còn thần sắc. Phát huy bản lĩnh văn hóa Việt Nam
trong xu thế toàn cầu hóa, chính là việc nuôi dưỡng và bồi đắp sức sống cho
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, trước sự tác động đa chiều của
thời đại.
Việt Nam có lịch sử phát triển văn hoá
lâu đời. Lịch sử đó thống nhất với lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước. Với
đặc thù tự nhiên, với vị trí địa lý là trung tâm giao lưu Bắc – Nam, Đông – Tây, Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp thu và đã
tiếp thu được nhiều giá trị văn hoá bên ngoài để làm giàu văn hoá dân tộc. Có
thể nói, “đầu vào” của văn hoá Việt Nam
rất đa dạng, nhưng “đầu ra” lại rất đặc sắc Việt Nam. Nền văn hoá Việt Nam có
nhiều dấu ấn, giá trị văn hoá đặc sắc của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, thậm
chí cả của phương Tây. Điều đó là do sự tiếp thu có nguyên tắc - không đánh mất
bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam. Các giá trị văn hoá bên ngoài
rất đa dạng, phong phú, nhưng khi vào Việt Nam
đều được Việt Nam
hoá. Chẳng hạn, từ bi của Phật giáo khi xâm nhập vào Việt Nam đã trở thành đại từ, đại bi của Việt Nam; cái hùng, cái nhân của Nho giáo đã trở
thành cái đại hùng, đại nhân của Việt Nam (“Việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo” - Nguyễn Trãi).
Cái đặc sắc và bản lĩnh
văn hoá Việt Nam
luôn dựa trên sự lựa chọn lối ứng xử “hài hoà” của chủ thể văn hoá. Hài hoà với
thiên nhiên, hài hoà trong xã hội được biểu hiện ở tất cả các mặt, các lĩnh vực
của cuộc sống và trên tất cả các cấp độ, từ cách đối nhân xử thế hàng ngày đến
nếp sống, lối tư duy, quan niệm về đạo lý làm người. Do ứng xử hài hoà, văn hoá
Việt Nam
không cự tuyệt các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng
tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, chưa bao giờ văn hoá Việt Nam có cơ hội tiếp thu những giá trị từ nhiều
nền văn hoá, song cũng chứa đựng nhiều nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc của văn
hoá như hiện nay. Để phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải được củng cố vững vàng trong tình hình
mới. Nội dung quan trọng nhất để xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam là tuân thủ
quy luật đó một cách linh hoạt và sáng tạo. Do vậy, xây dựng bản lĩnh văn hoá
Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải có chiến lược phát triển văn hoá một cách
khoa học, kết hợp được và thể hiện được sự thống nhất giữa tính nguyên tắc với
tính linh hoạt, sáng tạo trong vận dụng. Đây là hai mặt của một vấn đề. Nếu vận
dụng một cách khoa học, chúng sẽ trở thành tiền đề, động lực phát triển cho
nhau; còn nếu vận dụng một cách thiếu khoa học, chúng sẽ cản trở sự phát triển
của nhau. Sự thống nhất giữa tính nguyên tắc và sự linh hoạt, sáng tạo trong
vận dụng đó còn phải được thẩm thấu vào tiềm thức của mỗi chủ thể ở các cấp độ
khác nhau để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ từ trên xuống dưới, thậm chí ở mỗi
con người cụ thể.
Bản lĩnh của một nền văn
hoá dựa trên sức đề kháng với những tác động từ bên ngoài trong quá trình phát
triển và trong quan hệ giao lưu, hội nhập. Trong lịch sử, văn hoá Việt Nam
luôn có sức đề kháng to lớn. Nhờ đó, văn hoá Việt Nam đã tạo dựng được bản lĩnh vững
vàng trong giữ gìn bản sắc dân tộc. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn
hoá bên ngoài, văn hoá Việt Nam
đã không bị đồng hoá, không đánh mất bản sắc của mình. Sức đề kháng đó của văn
hoá Việt Nam còn có cội
nguồn từ tầng sâu của tâm hồn, trí tuệ, lòng tự tôn dân tộc, không chịu khuất
phục trong mỗi con người Việt Nam.
Cội nguồn sức đề kháng của văn hoá Việt Nam là như vậy, nên chính sách đồng hoá
về văn hoá trong suốt thời gian đô hộ cả
ngàn năm của phong kiến phương Bắc, thậm chí cả của chủ nghĩa thực dân cũ và
mới hơn một trăm năm vẫn không làm phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc. Dân tộc
ta, dù bị thất bại về quân sự nhiều lần, nhưng nhờ cội nguồn sức mạnh đó, cuối
cùng vẫn vùng dậy đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập dân tộc.
Hiện nay, sức đề kháng
trong bản lĩnh văn hoá Việt Nam
lại một lần nữa đứng trước thử thách của sự xâm nhập với quy mô lớn của các giá
trị văn hoá bên ngoài. Sự xâm nhập đó không chỉ giới hạn ở quy luật giao lưu,
hội nhập văn hoá, mà còn ở chính sách xâm lược về chính trị, quân sự của các
thế lực thù địch. Do vậy, giờ đây, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có chiến lược
nâng cao sức đề kháng của văn hoá Việt Nam một cách phù hợp để nâng cao bản
lĩnh văn hoá Việt Nam – một vấn đề sống còn của dân tộc ta hiện nay.
Nâng cao sức đề kháng của
nền văn hoá dân tộc ta hiện nay là quá trình làm cho cơ thể văn hoá Việt Nam được “miễn dịch” với mọi tác động của các phản giá trị đang
làm băng hoại văn hoá. Sức đề kháng đó chỉ có thể có được khi các yếu tố
bên trong cấu thành nền văn hoá Việt Nam cùng phát triển và tác động
đồng thuận theo định hướng của Đảng ta. Như vậy, Đảng phải tự đổi mới ngang tầm
nhiệm vụ để thật sự là đạo đức, là văn minh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói,
đủ sức lãnh đạo xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam trong thế ứng xử với
xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay. Mặt khác, mỗi con người Việt Nam
phải thật sự là một chủ thể kiên cường trước sự lôi kéo, mua chuộc của những
phản văn hoá. Quá trình nâng cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam cần trang
bị cho mỗi người khả năng nhận thức và tự hào về lịch sử phát triển văn hoá dân
tộc với tất cả những giá trị của truyền thống oai hùng trong dựng nước đi đôi
với giữ nước. Đồng thời, cần phải tạo ra tâm lý biết hổ thẹn với non sông đất
nước khi Tổ quốc bị xâm lăng. Trong hệ giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam,
tội lớn nhất là phản bội dân tộc, “rước voi về giày mả tổ”, “cõng rắn cắn gà
nhà”. Hiện nay, tệ sùng bái văn hoá phương Tây, quay lưng lại quá khứ, thiếu
trách nhiệm với hiện tại và mơ hồ về tương lai dân tộc cần phải được lên án
mạnh mẽ và đào thải ra khỏi đời sống xã hội.
Để bản sắc
văn hóa dân tộc trở thành “bộ lọc” tốt, phải xác định rõ ranh giới giữa tinh
hoa văn hóa và các yếu tố lạc hậu trong văn hóa truyền thống. Tinh hoa văn hóa
có tính bền vững truyền từ đời này sang đời khác, sống mãi với một dân tộc.
Nhưng do sự hạn chế có tính lịch sử, văn hóa quá khứ chứa đựng những yếu tố lạc
hậu, trở thành vật cản của sự phát triển xã hội. Thực tế cho thấy, một khi
buông lỏng quản lý văn hóa trong cơ chế thị trường, thì lập tức mặt trái của cơ
chế thị trường tạo điều kiện cho những mặt trái của văn hóa quá khứ, (như hủ
tục, lệ làng, mê tín dị đoan, tư duy tiểu nông, lối sống lạc hậu…) phát triển
nhanh chóng. Cùng nằm trong khuôn khổ của văn hóa quá khứ, nên việc tìm ra ranh
giới này không phải là đơn giản, dễ nhầm lẫn hoặc rơi vào máy móc, làm tổn hại
đến giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Vì thế, việc xác định ranh giới đó là
rất cần thiết, nhằm góp phần làm sáng rõ giá trị đích thực của bản sắc văn hóa
Việt Nam
trong mọi thời đại.
Nâng
cao sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam, chúng ta còn phải đào thải những phản
giá trị nảy sinh từ chính mặt trái của kinh tế thị
trường để xây dựng cơ thể văn hoá Việt Nam không còn những nhân tố làm
băng hoại đạo đức, lối sống, suy đồi về văn hoá. Một cơ thể văn hoá cường tráng
sẽ không còn những “vi rút” gây bệnh từ bên trong. Sự xâm nhập những phản giá
trị từ bên ngoài bao giờ cũng thông qua những phản giá trị nảy sinh từ bên
trong. Do vậy, sự thống nhất giữa phòng ngừa, đào thải những phản giá trị ở bên
trong với đẩy lùi sự xâm nhập những phản giá trị từ bên ngoài cần được coi là
giải pháp hữu hiệu trong xây dựng sức đề kháng cho văn hoá Việt Nam hiện nay.
Một
dân tộc chỉ biết mỗi “làm giàu” là dân tộc thiếu chiều sâu. Mục tiêu mà Đảng ta
đề ra là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là sự kết hợp
các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội trong quá trình xây dựng,
phát triển đất nước. Không thể xây dựng một xã hội văn minh với nền kinh tế lạc
hậu, thấp kém; ngược lại, có một nền kinh tế phát triển nhưng thiếu văn minh
thì không phải là một xã hội tiến bộ. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để kinh tế
và văn hóa phát triển hài hòa trong sự phát triển của xã hội, để kinh tế không
phá hoại văn hóa và văn hóa không cản trở sự phát triển kinh tế.
Xây dựng bản lĩnh văn hoá
Việt Nam
hiện nay, chúng ta không thể không phát triển tư
chất, khí phách, cốt cách của chủ thể văn hoá trong tư thế ứng xử với xu thế
giao lưu, hội nhập. Bởi lẽ, bản lĩnh của một nền văn hoá bao giờ cũng
biểu hiện tập trung, sâu sắc ở tư chất, cốt cách và khí phách của chủ thể văn
hoá. Mỗi dân tộc đều có tư chất, khí phách riêng trong quan hệ, giao lưu với
văn hoá nước ngoài. Văn hoá Việt Nam
luôn thể hiện tư chất, cốt cách, khí phách đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù là một nước nhỏ bên cạnh nước lớn, trong thế liên tục phải chống lại sự
đồng hoá văn hoá, nhưng dân tộc Việt Nam đã hình thành cho mình tư thế hiên
ngang, khí phách anh hùng, không chịu khuất
phục. Trước sự phát triển rực rỡ của nền văn hoá Hán, nhiều dân tộc xung quanh,
mặc dù chiến thắng về quân sự, nhưng lại thất bại về văn hoá, bị đồng hoá về
văn hoá và trở thành bản sao của văn hoá Hán. Thế nhưng, cũng trong bối cảnh
đó, văn hoá Việt Nam vẫn luôn khẳng định được bản sắc của mình, vẫn giữ được
cốt cách, tư chất và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh quốc tế
đầy biến động như hiện nay, dân tộc Việt Nam với tư cách một chủ thể văn hoá càng phải thể hiện rõ cốt cách, tư chất,
khí phách của mình để bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam trước
những khó khăn, phức tạp mới trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu. Để thực
hiện điều này, trong bối cảnh mới, chúng ta cần đổi mới, nâng cao chất lượng
giáo dục lịch sử, truyền thống yêu nước, lòng tự tôn, tự hào dân tộc… để hun
đúc khí phách, cốt cách và tư chất con người Việt Nam trong thế ứng xử với xu
thế giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng. Đồng thời, nêu cao tính chủ động để
sẵn sàng giao lưu, hội nhập, tiếp thu những giá trị văn hoá nhân loại với tư
thế, tư chất và khí phách con người Việt Nam.
Xây dựng bản lĩnh văn hoá
Việt Nam trong thế ứng xử
với xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, chúng ta cũng cần phải gia tăng hàm lượng trí tuệ trong bản sắc văn hoá Việt Nam. Văn
hoá và văn minh không đồng nhất, nhưng giữa chúng luôn có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Hiện nay, sự phát triển với tốc độ vũ bão của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đặc biệt là kinh tế tri thức đang mở ra một môi trường cạnh
tranh và chạy đua về trí tuệ gay go, phức tạp giữa các quốc gia, dân tộc và tác
động sâu sắc đến các nền văn hoá. Trong bối cảnh đó, sự biểu đạt, tiếp thu và
lan toả những giá trị của một nền văn hoá thể hiện bản lĩnh vững vàng của chủ
thể văn hoá một dân tộc cũng cần phải chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao. Trong
thế ứng xử hiện nay, bản lĩnh của một nền văn hoá không thể có thế mạnh, nếu
không có sự gia tăng về hàm lượng trí tuệ.
Để bản lĩnh văn hoá Việt Nam mang tầm
thời đại, chúng ta không thể không nâng cao hàm lượng trí tuệ cho nó. Nâng cao
hàm lượng trí tuệ trong xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam phải bắt đầu từ giáo dục - đào
tạo, nâng cao dân trí. Chất lượng và hiệu quả của việc nâng cao dân trí sẽ đem
lại cho con người Việt Nam
khả năng phân biệt được cái giá trị, cái phản giá trị; cái cần tiếp thu, cái
không cần tiếp thu của văn hoá ngoại lai. Trên cơ sở nâng cao trình độ khoa học
về mọi mặt, họ sẽ tự khẳng định được tính chủ thể và bản lĩnh của một chủ thể
văn hoá tích cực, nhờ đó bản lĩnh văn hoá Việt Nam trở nên thực sự vững vàng
trong thế ứng xử với xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay. V.I.Lênin đã
nói: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp
này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và
những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì
trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người ta lừa bịp và tự
lừa bịp mình về chính trị”[1].
Xây dựng bản lĩnh
văn hoá Việt Nam
trong thế ứng xử hiện nay phải tạo thế chủ động trong
phát triển văn hoá và trong giao lưu, hội nhập. Xu thế giao lưu, hội
nhập có tính chất toàn cầu hiện nay là quy luật phát triển của nhân loại và của
từng dân tộc. Một nền văn hoá có bản lĩnh không thể ở thế bị động trong xu thế
giao lưu, hội nhập với các nền văn hoá khác. Tạo thế chủ động trong xây dựng
bản lĩnh nền văn hoá Việt Nam
có ý nghĩa to lớn đối với việc bảo vệ bản sắc dân tộc và sự phát triển của văn
hoá Việt Nam.
Yêu cầu đó đòi hỏi phải có sự kết hợp một cách hợp lý giữa chiến lược phát
triển lâu dài với chủ trương, biện pháp trước mắt. Quá trình giao lưu, hội nhập
trong xu thế hiện nay luôn đòi hỏi chúng ta phải bảo đảm sự hài hoà giữa giữ
vững nguyên tắc với phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi chủ thể ở các cấp
độ khác nhau. Tính nguyên tắc trong việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc để
không trở thành bản sao văn hoá của dân tộc khác là quán triệt quan điểm giai
cấp của Đảng, tạo thế chủ động và tích cực tham gia vào xu thế chung hiện nay,
đồng thời cần khắc phục tâm lý lo ngại hoặc tham gia giao lưu, hội nhập một
cách vô nguyên tắc.
Trước những yêu cầu ngày
càng cao của dân tộc và thời đại, mà trực tiếp là trong xu thế giao lưu, hội
nhập hiện nay, xây dựng bản lĩnh văn hoá Việt Nam vững
vàng là vấn đề có tính sống còn trong việc bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc. Ý thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng ta xác định,
phát triển văn hoá với tư cách nền tảng tinh thần của xã hội, cho nên, cần “Tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc… Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt
Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá…, đặc biệt là
lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con
người Việt Nam”[2].
Tư tưởng chỉ đạo này cần được quán triệt sâu rộng và đi vào phong trào quần
chúng để mỗi con người, mỗi tổ chức và cả dân tộc ta luôn là chủ thể văn hoá có
bản lĩnh vững vàng trong xu thế giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét