Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017

“TRỒNG NGƯỜI”-TƯỞNG NHÂN VĂN CAO CẢ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH



Trong hệ thống di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề con người và xây dựng con người mới có vị trí đặc biệt quan trọng, trong đó tư tưởng “trồng người” là nội dung trung tâm, “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”[1]. Đây chính là sự kết tinh những tinh hoa cao đẹp của truyền thống dân tộc, nhân loại và thời đại, là kim chỉ nam, là phương châm cho việc hoạch định chiến lược xây dựng con người của Đảng ta trong lịch sử cũng như hiện nay.
“Trồng người” là một công việc đòi hỏi vừa phải có chiến lược cơ bản, lâu dài, vừa phải có chính sách và kế hoạch toàn diện, cụ thể, khoa học, tiến hành một cách chu đáo, cẩn thận, gắn với chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, Hồ Chí Minh căn dặn: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre gỗ... mà xây nên”[2].
Quan điểm “trồng người” của Hồ Chí Minh rất phong phú, toàn diện và cụ thể, tuỳ vào mỗi thời kỳ cách mạng để có những con người phù hợp, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Ngoài ra, tuỳ theo từng đối tượng, từng đặc điểm đối với mỗi lớp người, Người nêu lên những chuẩn mực riêng để mọi người đều có thể phấn đấu trở thành những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Điều này cho thấy, mục đích của việc “trồng người” phụ thuộc vào mục tiêu của cách mạng; đồng thời mục tiêu, lý tưởng của cách mạng lại chính là vì con người, đó là biện chứng của sự phát triển cách mạng XHCN, là biện chứng trong tư duy và hoạt động thực tiễn vì sự nghiệp giải phóng, xây dựng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với chủ trương “trồng người” phải toàn diện, để đào tạo những con người “vừa hồng, vừa chuyên”, có đầy đủ đức, tài, sức khoẻ và trình độ thẩm mỹ để có thể cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc. Đây là những yếu tố không thể tách rời, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong phẩm chất con người mà cách mạng cần xây dựng để xoá bỏ xã hội cũ đã lạc hậu, xây dựng xã hội mới-XHCN. Trong mối quan hệ này, đạo đức giữ vai trò nền tảng, là gốc còn trí, thể, mỹ là phương tiện để con người nhận thức và hành động chính xác, có hiệu quả vì lợi ích chung của dân tộc. Cho nên, mỗi người đồng thời phải rèn luyện bản thân cả về đạo đức lẫn trí, thể, mỹ. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp thì yêu cầu với việc “vun trồng” phẩm chất đức, trí, thể, mỹ cho con người có khác nhau, nhưng chung nhất là hướng vào phục vụ nhân dân, phục vụ con người, phục vụ Tổ quốc.
Để thực hiện việc “trồng người” có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh, trước hết là phải tôn trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng, đào tạo và sử dụng con người cho đúng với phẩm chất và năng lực, làm cho họ phát huy được tài năng, tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, cống hiến nhiều hơn cho đất nước, mà trước hết là chăm lo cuộc sống vật chất, tinh thần cho con người. Giá trị thực sự của độc lập, tự do là ở chỗ đó, cho nên, xây dựng CNXH là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Do đó, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[3]. Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành bao giờ cũng phải dựa trên điểm tựa con người và vì con người, lấy lợi ích của nhân dân lao động làm điểm xuất phát và mục tiêu phát triển. Chất lượng cuộc sống là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá hiệu quả của tất cả các hoạt động kinh tế-xã hội.
Hướng đến con người, vì con người, theo Hồ Chí Minh, đó không chỉ là chăm lo đến cuộc sống của con người, mà còn phải tôn trọng cái riêng, cái cá nhân của mỗi người. Với tư cách là cá nhân trong cộng đồng, mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Khi những cái riêng của cá nhân được trân trọng thì cũng có nghĩa là quyền con người được tôn trọng, nhu cầu của con người được đáp ứng, con người dần vươn tới tự do. Nhưng lợi ích cá nhân của con người phải gắn liền với lợi ích chung của Tổ quốc, của dân tộc, để làm cho lợi ích cá nhân và xã hội phát triển hài hòa. Nếu cái riêng, cái cá nhân của con người nằm ngoài lợi ích của cộng đồng, của dân tộc, đi ngược lại với lợi ích chung của xã hội thì sẽ trở thành chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ và điều đó tất yếu dẫn đến cản trở, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Và khi lợi ích cá nhân được bảo đảm và gắn chặt với lợi ích xã hội sẽ kích thích tính tích cực về mặt xã hội của con người, làm gia tăng tinh thần tận tụy, chất lượng công việc của từng con người cũng như các nhóm xã hội có cùng lợi ích. Tôn trọng những cái riêng, cá nhân của con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội.
Để công việc “trồng người” có hiệu quả, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục toàn diện. Mục tiêu của giáo dục trong chiến lược con người là “đào tạo những công dân tốt và cán bộ tốt”, được biểu hiện thông qua mục tiêu cụ thể của từng đối tượng, nội dung, giai đoạn, cấp học. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược thì nội dung giáo dục phải toàn diện, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất”[4]. Và mục đích của học tập là “học để tu dưỡng đạo đức”, “học để tin tưởng”, “học để tiến bộ mãi, càng tiến bộ càng thấy cần phải học”, “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”[5]. Tức là, học tập nhằm hoàn thiện đạo làm người, nâng cao trình độ và năng lực để hoàn thành nhiệm vụ, học để áp dụng kiến thức đó vào làm việc; học để phục vụ lợi ích của Đảng, nhân dân, Tổ quốc và cả nhân loại. 
Trong sự nghiệp “trồng người”, trước hết phải quan tâm đến đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh khẳng định: “mọi việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ... Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ”[6]. Nếu có cán bộ tốt, cán bộ ngang tầm thì việc xây dựng và thực hiện đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có đường lối chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được. Cùng với đó, là sự quan tâm chăm lo, bồi dưỡng thế hệ trẻ - lực lượng đóng vai trò quyết định sự thành bại của cách mạng, là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng, là người chủ tương lai của nước nhà, là tiền đồ của Tổ quốc. Do vậy, Đảng cần phải “chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[7].
Để thực hiện việc giáo dục toàn diện có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần giáo dục bằng phương pháp nêu gương “người tốt, việc tốt”. Bởi, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để xây dựng con người, đây là phương pháp sinh động và có sức thuyết phục rất lớn., là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Vì thế, phải quan tâm khơi dậy và chăm chút những phần tốt, mặt tốt ở mỗi con người, nêu lên những tấm gương tốt diễn ra hằng ngày để mọi người noi theo. Người yêu cầu ông bà, cha mẹ phải làm tấm gương cho con cháu, anh chị làm tấm gương cho em; thầy giáo, cô giáo phải làm kiểu mẫu về tri thức và nhân cách cho học trò; thế hệ trước phải làm gương cho thế hệ sau; cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu tấm gương sáng, làm khuôn mẫu cho quần chúng học tập… Ngoài ra, xuất phát từ thực tiễn cách mạng, tuỳ theo đặc điểm của từng đối tượng, từng công việc mà Người nêu ra những mẫu người tiêu biểu cho từng giai cấp, tầng lớp khác nhau: mẫu người công an, bác sĩ, công nhân, nông dân, thanh niên, nhi đồng… để mọi người phấn đấu noi theo.
Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong công việc “trồng người”. Trong việc giáo dục thế hệ trẻ thì “giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục nhà trường dù tốt mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”[8]. Sự phối hợp giáo dục từ gia đình đến nhà trường và cả xã hội sẽ làm cho thế hệ trẻ thấm nhuần và hun đúc tinh thần yêu Tổ quốc, yêu lao động, yêu học hỏi, trở nên mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, gan dạ, thật thà. Nhưng, giáo dục thế hệ trẻ không chỉ đơn thuần là sự phối hợp, mà theo Người, đây là công việc, nhiệm vụ chung của cả gia đình, nhà trường và xã hội để thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt, cán bộ tốt, người chủ tương lai thật sự của đất nước. Người chỉ rõ: “Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách”[9].
“Trồng người”, còn là việc mỗi người phải tự mình giác ngộ, rèn luyện một cách nghiêm khắc - điều này quyết định đến chính sự “nên người” của họ, đó cũng là sự góp phần vào việc xây dựng cộng đồng. Hồ Chí Minh khẳng định: “nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường”[10], mỗi người “phải lấy tự học làm cốt”, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tinh thần tự lực tự cường, sự rèn luyện bền bỉ, tính chủ động và độc lập trong suy nghĩ, trong cách làm là rất quan trọng, giúp họ không chủ quan, ỉ lại, tuỳ vào hoàn cảnh mà áp dụng những điều được học. Do vậy, xây dựng con người mới phải được đặt ra trong suốt cuộc đời mỗi người. Đây vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đồng thời, đó cũng là một quá trình không ngừng, không có giới hạn tột cùng cho sự vươn lên của mọi người. 
Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội. Học là để lấy cái thực chất, tiếp thu kiến thức, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, thông qua thực hành để củng cố và nâng cao kiến thức được tiếp thu, rèn luyện kỹ năng và hình thành những phẩm chất cần có của người lao động mới. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động; Lý luận đi với thực hành; Cần cù đi với tiết kiệm”[11]. Nội dung giáo dục phải đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn và giáo dục gắn liền với xã hội. Đây là điều kiện để mỗi người đem vốn hiểu biết tiếp thu được phục vụ cuộc sống, phục vụ xã hội, là điều kiện cần thiết để giáo dục lý tưởng, rèn luyện đạo đức, trách nhiệm, ý thức công dân cho họ. 
Cùng với các phương pháp trên, chúng ta cần phải có cách nhìn người vừa bao dung, vừa sâu sắc, chủ yếu nhìn mặt tốt của con người và tìm cách khơi dậy mặt tốt đó. Người khẳng định: “mỗi người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi… làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”[12], đó là thái độ của người cách mạng. Tức là, khi xem xét đánh giá con người, cần chú ý đến điểm tốt, điểm xấu; điểm hay, điểm dở ở mỗi người và hoàn cảnh, điều kiện, đặc tính riêng của họ. Mặt khác, trong thế giới cái gì cũng biến hoá, quá khứ, hiện tại và lương lai của mọi người không phải giống nhau. Muốn đẩy lùi cái ác thì cách tốt nhất là khơi dậy cái thiện, làm cho cái thiện nảy nở, phát triển. Đồng thời, phải gắn liền với việc đấu tranh chống những thói hư tật xấu của con người: chủ nghĩa cá nhân, tệ tham ô, tham nhũng… đây là những “con sâu” đục ruỗng “cái cây”, là “giặc nội xâm” huỷ hoại xã hội mới, nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Xây và chống là hai mặt, không thể tách rời trong quá trình “trồng người”.
Trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, mà trực tiếp là nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thì trước hết phải coi trọng chiến lược con người, để xây dựng con người phát triển toàn diện cả về đức và tài, phát triển về thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, có kỹ năng lao động giỏi, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều cần nhấn mạnh là chúng ta phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam”[13]. Tức là, đẩy mạnh giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức, phẩm chất và nâng cao tính công dân cho đội ngũ lao động mới, tạo điều kiện để họ thực hiện đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân với chế độ xã hội chủ nghĩa, trước nhân dân, dân tộc và thời đại. Cần kế thừa và phát huy những giá trị tích cực và tiến bộ của con người Việt Nam trong truyền thống lịch sử của dân tộc, đồng thời phê phán những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển con người./.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.222.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.551.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.511.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.190.
[5] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.684.
[6] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.240.
[7] Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.510.
[8] Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.394.
[9] Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.74.
[10] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.99.
[11] Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.295.
[12] Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.558.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.106.

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ THANH NIÊN ƯU TÚ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC



Trong mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội, việc xây dựng mẫu hình lý tưởng của con người có những điểm khác nhau, tùy thuộc vào lợi ích của giai cấp, dân tộc cũng như chế độ xã hội mà họ xây dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần ấy, cùng với sự kế thừa có chọn lọc và phát huy những phẩm chất tốt đẹp của các thế hệ thanh niên Việt Nam trong truyền thống trước những yêu cầu mới của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, giao lưu hội nhập quốc tế,... đòi hỏi chúng ta cần phải xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có ý thức công dân, biết xử lý hài hoà lợi ích của bản thân trong lợi ích chung của tập thể, cộng đồng; có lý tưởng cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi; có văn hóa và sống nghĩa tình; có sức khỏe thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần tình nguyện. Cụ thể là:
Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng
V.I.Lênin đã dạy, người thanh niên cộng sản phải có quan điểm giai cấp nghiêm ngặt khi đánh giá, nhìn nhận những sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội. Đối với thanh niên nước ta đó chính là quan điểm giai cấp công nhân, là bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng. Đó cũng chính là khả năng nhận thức đúng quy luật phát triển khách quan, là sự nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt những vấn đề mà cuộc sống đặt ra theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bản lĩnh chính trị vững vàng là yếu tố cơ bản để giúp thanh niên có khả năng "đề phòng" tốt nhất trước những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi và đa dạng trên nhiều lĩnh vực mà các các thế lực thù địch đang thực hiện nhằm chống phá cách mạng nước ta. Đồng thời, đây cũng là yếu tố để thanh niên luôn hướng đến mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng đó là, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Hai là, có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao động giỏi
Trong giai đoạn hiện nay, thanh niên phải có chuyên môn sâu về một lĩnh vực cụ thể, tuỳ vào năng lực của từng người. Khả năng đó có cơ sở từ một trí tuệ và trình độ học vấn, tay nghề cao. Đây là yếu tố để thanh niên thực hiện được lý tưởng nghề nghiệp của mình. Một mặt, nó đảm bảo cho thu nhập của người lao động, mặt khác, cũng góp phần nâng cao chất lượng và ổn định cuộc sống của họ. Ngoài ra, sẽ giúp thanh niên có khả năng phát huy thế mạnh của mình hơn, đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Người thanh niên công nhân giỏi chuyên môn thể hiện ở trình độ kỹ thuật, tay nghề, có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần giảm những chi phí không cần thiết cho các doanh nghiệp, cho xã hội. Đối với thanh niên là sinh viên, trí thức, học sinh đó là những người học tập giỏi, có nhiều sáng kiến, phát minh khoa học, những công trình nghiên cứu khoa học được áp dụng vào thực tiễn.
Ba là, có sức khoẻ tốt, trung thực, thẳng thắn, giữ chữ tín
Trong điều kiện hiện nay, trước những áp lực, yêu cầu ngày càng cao của công việc, người thanh niên không chỉ có kiến thức, trình độ chuyên môn cao mà còn phải có sức khỏe tốt. Đó là sự phát triển tốt về thể chất, thể lực. Có sức khoẻ tốt mới đảm bảo cho thanh niên có đủ điều kiện để học tập, lao động, nghiên cứu. Sức khoẻ là yếu tố quan trọng hàng đầu của con người bên cạnh tài năng và trí tuệ. Thanh niên ngày nay do được chăm sóc tốt  hơn nên thể lực cũng tăng lên đáng kể. Đó là lực lượng lao động đông đảo đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
Cùng với đó, nền kinh tế thị trường như đã thấy, bên cạnh những mặt tích cực cũng tồn tại những khiếm khuyết như: chụp giật, buôn lậu làm hàng giả… Trong cơ chế đó, người thanh niên cần phải thẳng thắn, giữ chữ tín. Trong quan hệ kinh tế, muốn làm ăn lâu dài và ổn định, các chủ thể phải giữ chữ tín, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho nhau. Người thanh niên muốn là những nhà kinh doanh giỏi thì phải trung thực, giữ chữ tín trong thương trường. Có như thế mới tạo ra được sự tin cậy cho khách hàng cũng như các nhà đối tác. Thanh niên ngày nay phải thẳng thắn lên án những hành vi, những hiện tượng lệch chuẩn trong kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Bốn là, có ý thức pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật
Thanh niên một mặt phải am hiểu pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, mặt khác, còn là những người tuyên truyền phổ biến pháp luật cho những người khác và đối tượng khác. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Pháp luật trở thành một công cụ quản lý quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tức là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì thế, sống và làm việc theo pháp luật là trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội. Thực tế cho thấy, những hành vi vi phạm pháp luật trong thanh niên đã nói lên sự thiếu ý thức và hiểu biết về pháp luật của một bộ phận thanh niên. Có ý thức pháp luật giúp cho thanh niên có được những hành vi phù hợp với những quy tắc ứng xử và chuẩn mực của xã hội. Bên cạnh đó, thanh niên còn phải là người đóng góp ý kiến của mình để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Năm là, có ý chí tiến thủ và khiêm tốn, chủ động và tự giác
Cuộc sống luôn đặt ra cho thanh niên nhiều khó khăn, thử thách. Muốn trở thành một công dân có ích, thanh niên luôn phải xây dựng cho mình một hướng đi đúng. Họ hướng cuộc đời vào một lý tưởng cao hơn hoàn cảnh hiện tại. Họ phải là những người không bao giờ chấp nhận hoàn cảnh hiện tại mà luôn tìm cách cải thiện nó. Nói cách khác, không chùn bước trước khó khăn, thử  thách; không sợ thất bại và luôn tìm cách nhằm cải tạo hoàn cảnh để vững tiến về phía trước. Bên cạnh đó, thanh niên cần có đức tính khiêm tốn. Đó là đức tính nhã nhặn, biết ứng xử khéo léo, không khoe khoang, tự mãn, không quá tự đề cao mình đối với người khác. Người có đức tính này luôn tự coi mình là kém cỏi, cần phải học, rèn luyện nhiều hơn nữa… Họ luôn cho sự thành công của bản thân là bình thường, không đáng kể, luôn tỏ ra muốn học hỏi thêm. Trong thanh niên, đức tính khiêm tốn một mặt thuộc về phạm trù tự ý thức của bản thân, mặt khác, khi có được nó thanh niên sẽ cố gắng để đạt thành tích cao hơn.
Để tiếp nhận những cơ hội mới một cách có hiệu quả, thanh niên phải có tính chủ động. Họ phải chủ động trong việc phát huy khả năng của mình ở một lĩnh vực ngành nghề nào đó, mà không dựa dẫm vào người khác, hoặc trông chờ quá nhiều vào sự quan tâm, giúp đỡ xã hội, mặc dù sự quan tâm giúp đỡ của xã hội đối với họ có ý nghĩa rất quan trọng. Bên cạnh đó, tự giác cũng là một phẩm chất đáng quý ở thanh niên. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nhiều thanh niên đã gia nhập vào đội thanh niên xung phong ra chiến trường để giết giặc lập công góp phần vào sự thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc. Ngày nay, phẩm chất này cần hơn bao giờ hết, chẳng hạn, những tri thức trẻ tinh nguyện phát triển nông thôn là những ví dụ điển hình…
Sáu là, có quan hệ xã hội rộng, biết làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại
Trong xã hội hiện đại, mỗi thành viên trong xã hội nói chung, thanh niên nói riêng cần thực hiện nhiều vai trò khác. Những vai trò xã hội này không phải cá nhân đó muốn hay không muốn mà do khách quan quy định. Việc mở rộng quan hệ xã hội tương ứng với mỗi vai trò cũng đồng nghĩa với quá trình "xã hội hoá" thanh niên đó lớn hơn, sâu sắc hơn. Tức là, thông qua quá trình đó, bản thân thanh niên có dịp được lãnh nhận, tiếp nhận những kinh nghiệm hữu ích, những cơ hội cho mình. Và cũng từ những bước đó, bản thân mỗi thanh niên càng hoàn thiện mình hơn. Chính vì thế, trong điều kiện hiện nay, việc bồi dưỡng giáo dục thanh niên không chỉ là trách nhiệm của một tổ chức riêng lẻ - dù tổ chức đó có trách nhiệm lớn nhất - mà tất cả các tổ chức khác nhau - nơi mà mỗi thanh niên là một thành viên của tổ chức đó. Dễ thấy về đặc trưng quan hệ xã hội rộng trong thanh niên hiện nay. Chẳng hạn, thanh niên là các doanh nhân trẻ, ngày nay, không chỉ có quan hệ với các đối tác trong nước, mà còn, mở rộng quan hệ đó tới các đối tác tới các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu của khoa học công nghệ, còn có xu thế chuyển giao công nghệ giữa các nước với nhau: các nước phát triển đối với các nước đang phát triển… Tuy nhiên, thực tế cho thấy, do năng lực làm chủ khoa học và công nghệ chưa cao mà chúng ta phải trả giá ở chỗ tiếp nhận những công nghệ đã quá lạc hậu ở nước đó và vô hình chung biến chúng ta trở thành một "bãi phế liệu" của các nước phát triển. Và như thế, sẽ rất ít những sản phẩm do người Việt Nam tạo ra được nhiều nước biết đến. Do đó, làm chủ khoa học công nghệ đối với thanh niên, trước tiên là phải làm chủ những công nghệ mà thế giới đã đạt được, có khả năng thẩm định nó. Và quan trọng hơn, cũng cần mạnh dạn áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Hiện nay, nước ta có 70% làm việc tại khu vực nông nghiệp, trong đó thanh niên nông thôn chiếm tỷ lệ đáng kể. Do đó, trong sản xuất nông nghiệp, thanh niên phải mạnh dạn đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào việc phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Ngoài ra, thanh niên hiện nay phải trở thành người tháo vát, năng động, thích ứng với cơ chế mới, biết iết kiệm, quý trọng thời gian đây dường như là một tiêu chí nói trên trình độ văn minh và năng suất lao động của một đất nước, mỗi thành viên trong xã hội.
Những đặc trưng này vừa là biểu hiện cụ thể vừa là tiền đề định hướng các giá trị mới để hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

XÂY DỰNG NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC



Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, phụ nữ Việt Nam luôn thể hiện rõ những phẩm chất truyền thống tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần quật cường chống giặc ngoại xâm; cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất; có lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương và đức hy sinh. Ngày nay, phụ nữ Việt Nam một mặt tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức quý báu, những giá trị văn hóa, tinh thần vô giá mà các thế hệ trước đã để lại, mặt khác không ngừng hình thành, phát triển những phẩm chất tiên tiến phù hợp với các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, từng bước góp phần tạo dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của phụ nữ trong mỗi bước đi lên của đất nước, những năm qua, Đảng ta đã có những nhận thức mới, và ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc chăm lo, xây dựng người phụ nữ Việt Nam, cụ thể, Đại hội lần thứ XI, Đảng ta xác định cần phải nhanh chóng “Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ”[1], đồng thời, “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của mình; tăng tỉ lệ phụ nữ tham gia vào cấp uỷ và bộ máy quản lý nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”[2]. Về phía Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, công tác tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội; được phát động thành phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” triển khai rộng khắp trong các cấp Hội phụ nữ. 
Vậy, vấn đề đặt ra ở đây là, người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới cần phải có những phẩm chất, tiêu chí nào? Tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đề ra mục tiêu: “Người phụ nữ Việt Nam yêu nước, có tri thức, có sức khỏe, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng”. Sự hình thành chuẩn mực trên là sự kết hợp giữa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai, cùng với việc phát huy những giá trị tư tưởng, tinh hoa tốt đẹp của thời đại mới. Trong Nghị quyết Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ X nêu rõ: “phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc”. Thiên chức của người phụ nữ, vai trò, trách nhiệm của các chị đối với gia đình được đặt lên ngang tầm với nhiệm vụ xây dựng một xã hội bình đẳng, phát triển... căn cứ vào những mục tiêu trên, chúng ta có thể xác định phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: có lòng yêu nước; có sức khoẻ; có tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; năng động, sáng tạo; có lối sống văn hoá và lòng nhân hậu. Để góp phần hiểu một cách cụ thể và tìm giải pháp cho vấn đề này, theo chúng tôi, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản như sau:
Một là, có lòng yêu nước
Yêu nước đã trở thành một truyền thống quý báu của mỗi người dân Việt Nam nói chung và đối với người phụ nữ Việt Nam nói riêng trong mọi thời đại, đặc biệt là trong thời đại mới, tinh thần yêu nước của người phụ nữ được đúc kết, hội tụ ở việc họ luôn có tình cảm sâu đậm, yêu và gắn bó thân thiết với gia đình, làng xóm, quê hương, đất nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chấp hành nghiêm luật pháp, chính sách của nhà nước; thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với đất nước. Sống tốt cho bản thân, gia đình và xã hội; tích cực học tập và làm việc để xây dựng đất nước giàu đẹp. Để tiếp tục giữ gìn và phát huy lòng yêu nước trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi người phụ nữ cần phải: Giữ gìn, phát huy truyền thống yêu nước và bản sắc văn hóa dân tộc; hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động; tham gia các hoạt động công ích của cộng đồng do chính quyền, mặt trận, các đoàn thể tổ chức; tích cực sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế gia đình, nuôi dạy con tốt; thực hiện tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên của đất nước, trong chi tiêu gia đình; nâng cao cảnh giác, chống mọi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch; giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; không tham gia khiếu nại đông người, đơn thư vượt cấp, không vi phạm pháp luật.
Hai là, có sức khỏe
Một trong những mục tiêu mà chúng ta hướng đến là con người được tự do và phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần, trong đó, vấn đề sức khỏe luôn là một tiêu chí quan trọng, nó được biểu hiện ở việc, người phụ nữ phải có thể chất tốt, tinh thần sảng khoái, lạc quan yêu đời; có khả năng thích ứng được mọi điều kiện của môi trường sống và làm việc; có đủ khả năng lao động để tạo ra sản phẩm. Để thực hiện được điều đó, người phụ nữ cần phải thường xuyên tìm hiểu kiến thức cơ bản về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, phòng chống bệnh tật; có ý thức bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm cho bản thân, gia đình và cộng đồng; kết hợp lao động và nghỉ ngơi, ăn uống hợp lý; động viên chồng, con và người thân cùng chia sẻ công việc gia đình; tích cực luyện tập thể dục thể thao; bảo vệ môi trường sống, phòng chống dịch bệnh; thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình, định kỳ kiểm tra sức khỏe.
Ba là, có tri thức, có trình độ học vấn, kiến thức cao và kỹ năng nghề nghiệp
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức... thì vấn đề đặt ra đối với người phụ nữ Việt Nam là cần phải có kiến thức, hiểu biết về cuộc sống, về xã hội; có trình độ học vấn hoặc tay nghề đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công việc cũng như có khả năng tạo ra sản phẩm đạt năng suất cao và chất lượng cao, đồng thời có kiến thức liên ngành, đa ngành bởi vì hoạt động sản xuất ngày nay thường là sự tiếp cận liên ngành. Điều đó đòi hỏi, Nhà nước có chính sách đầu tư để gấp rút trí thức hoá lực lượng lao động nữ, nâng cao chất lượng và phát triển số lượng các nữ chuyên gia có trình độ khoa học và công nghệ cao. Tuy nhiên, điều cốt yếu là phụ nữ cần có quyết tâm cao trong việc nâng cao năng lực bản thân; cần tranh thủ điều kiện, thời cơ tự học, tham gia các lớp học, học đủ, học có kết quả, thường ngày chịu khó đọc sách báo, nghe thông tin, kiên quyết gạt bỏ những lý do chưa cần, chưa vội cản trở việc học tập đều đặn; sắp xếp công việc một cách khoa học, biết phối hợp giữa làm trách việc, học tập, chăm sóc gia đình và quyết tâm tuân theo lịch trình.
Bốn là, năng động, sáng tạo trong công việc
Cần cù chịu khó, tôn trọng kỷ luật, có nguyên tắc vốn là đức tính đáng quý của người phụ nữ Việt Nam, nhưng chưa đủ với thời đại mới. Khi trong nước và trên thế giới tình hình luôn biến động, những tình huống mới xuất hiện, do đó cần năng động, sáng tạo, có cách suy nghĩ và giải quyết công việc khác trước, không theo nếp sống cũ, kinh nghiệm cũ. Tính độc lập sáng tạo của cá nhân, sự đổi mới tư duy trong suy nghĩ và hành động là hết sức cần thiết. Điều này đối với nhiều phụ nữ có khó khăn, vì họ theo nếp quen thường chấp hành một cách thụ động. Chúng ta không nhầm lẫn giữa việc giữ vững kỷ luật công tác với tính độc lập, sáng tạo trong giải quyết công việc. Việc xử lý tốt những khó khăn, công việc đem lại kết quả mong muốn, chính là chúng ta đã làm việc với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. Nói cách khác, người phụ nữ phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện ra cái mới và những sáng kiến hữu ích để áp dụng vào công việc và cuộc sống hàng ngày; có tính độc lập, mạnh dạn tiếp thu, áp dụng tiến bộ công nghệ vào công việc và cuộc sống; có sáng kiến cải tiến, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.
Để làm được điều đó, người phụ nữ cần phải tập trung vào việc tích cực học tập, nghiên cứu, nâng cao kiến thức, rèn luyện tay nghề; mạnh dạn áp dụng những kiến thứ thu nhậ được vào thực tiễn công việc và cuộc sống hàng ngày; khắc phục tính tự ti, bảo thủ; luôn có ý thức nghiên cứu, tìm tòi, cải tiến cách thức, phương pháp làm việc để nâng năng suất, chất lượng, hiệu quả; trao đổi và chia sẻ những tri thức, hiểu biết và kinh nghiệm trong công việc và cuộc sống cho chị em, bạn bè, đồng nghiệp cùng tiến bộ; rút kinh nghiệm từ thực tiễn cuộc sống, từ chính công việc của bản thân, đặc biệt là từ những việc chưa thành công.
Năm là, có lối sống văn hóa, lòng nhân hậu
Là thành viên gia đình và thường làm trách nhiệm người trụ cột, đồng thời là một công dân sống giữa cộng đồng dân cư, người phụ nữ có nhiều quan hệ đa dạng, phức tạp. Họ cần có lối sống văn hóa, sống đẹp, sống tốt, có lòng nhân hậu, điều đó thể hiện ở việc: Có phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, lịch sự, hài hòa lợi ích tập thể - cá nhân, vừa thích ứng được yêu cầu hội nhập, vừa phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc; có thái độ tôn trọng, tuân thủ luật pháp của Nhà nước và những quy định của địa phương, cơ quan, cộng đồng. Sống trung thực, đoàn kết, chân thành trong quan hệ gia đình, bạn bé, đồng nghiệp; có lòng nhân ái, giàu tình yêu thương và đức hy sinh; có lòng vị tha, biết chia sẻ, cảm thông với mọi người, nhất là những người gặp hoàn cảnh không may mắn; sống theo đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách”.
Trước những tiêu chí đó, người phụ nữ cần phải có ý thức học hỏi, tìm hiểu kiến thức về văn hóa dân tộc và những truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; tạo dựng hình ảnh, vẻ đẹp con người Việt Nam, phụ nữ Việt Nam; luôn có ý thức trau dồi phẩm chất, đạo đức; điều chỉnh hành vi và cách ứng xử theo chuẩn mực văn hóa cộng đồng; không xúc phạm danh dự và làm tổn hại đến mọi người bằng các hành vi bạo lực dưới mọi hình thức; vận động thực hiện thúc đẩy bình đẳng giới để tiến tới xóa bỏ định kiến giới trong xã hội; có ý thức và động viên mọi người cùng có ý thức thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, khối xóm văn hóa; luôn coi trọng tình làng nghĩa xóm, tình cảm bạn bè, đồng nghiệp; sống hóa mình vào cộng đồng để cảm nhận và chia sẻ vui buồn cùng mọi người; không kỳ thị, xa lánh những người mắc lầm lỗi, tạo cơ hội cho họ tái hòa nhập cộng đồng trở về với cuộc sống đời thường. Đồng thời, tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, tương thân tương ái.
Ngoài ra, người phụ nữ cần thực hiện tốt ba chức năng: Lao động sản xuất; sinh con, nuôi con và chăm sóc gia đình. Để hoàn thành tốt 3 chức năng đó, ngoài việc đủ sức khỏe, người phụ nữ cần phải có tri thức, có trình độ học vấn và kiến thức cao; có tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo. Biết phát huy thế mạnh của người phụ nữ là đức tính dịu dàng, chu đáo giúp cho chị em có thể đạt được mục đích nhưng nếu có được sự khôn khéo, quyết đoán sẽ đạt được thành công lớn. Điều đó được minh chứng bằng thành công của các chị trên nhiều lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, kinh doanh, sản xuất.
Lòng yêu nước, yêu quê hương, đồng bào, lý tưởng cuộc sống cao đẹp cũng như tình cảm gắn bó với gai đình, dòng họ là động lực, là sức mạnh tự thân giúp người phụ nữ vươn lên, khắc phục mọi khó khăn, trở ngại để có thể làm giàu kiến thức của mình, có sức khỏe dẻo dai, có lối sống văn hóa, hoàn thành được nhiệm vụ đặt ra, cả sự nghiệp và gia đình. Mỗi người phụ nữ tạo ra bản lĩnh riêng, từ trí tuệ được nâng cao, nhạy bén và năng động, cùng với vẻ đẹp nhẹ nhàng, sâu sắc tỏa ra từ tấm lòng nhân hậu của họ. Họ là những công dân ưu tú, giúp ích cho xã hội, đồng thời họ là người vợ hiền, người mẹ tận tâm, ngọn lửa quy tụ cả gia đình. 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.231.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.243.

TIN YÊU THẾ THỆ TRẺ - GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến thê hệ trẻ của dân tộc, thấy rõ vai trò to lớn của thanh niên trong tiến trình lịch sử và có niềm tin sâu sắc vào khả năng cách mạng của họ trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Vì vậy, Người đã dành nhiều thời gian, dồn tâm lực để gieo mầm cách mạng vào các thế hệ thanh niên Việt Nam. Với niềm tin rằng sự thịnh suy, mạnh yếu của đất nước phần lớn tùy thuộc vào thanh niên, và muốn “hồi sinh” dân tộc, trước hết phải “hồi sinh” thanh niên. Người viết: “ở Đông Dương, chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn... Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức!... Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”[1]. Khi tổ quốc lâm nguy, Người tin rằng thanh niên sẵn sàng “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, “Trong công cuộc kiến thiết, nước nhà trông mong, chờ đợi ở các cháu rất nhiều”. Trên thực tế, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã làm “hồi sinh” thanh niên Việt Nam bằng việc trực tiếp tổ chức, huấn luyện họ trên cơ sở lòng tin vững chắc và những lớp thanh niên đầu tiên đã được huấn luyện về chủ nghĩa Mác - Lênin, về cách mạng Việt Nam và sau này nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, của Nhà nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã giành được chính quyền cách mạng; song giặc ngoại xâm cộng với “giặc đói” và “giặc dốt” đã đặt ra nhiều vấn đề trọng đại mang tính chất sống còn đối với dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt hy vọng và niềm tin vào thế hệ trẻ trong việc đưa đất nước tiến lên. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quan để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[2]. Lòng tin thế hệ trẻ của Người được đúc kết sâu sắc thành chân lý: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”[3].
Đó là lòng tin có cơ sở khoa học vững chắc từ sự khẳng định vai trò to lớn của thanh niên Việt Nam. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải tin yêu và sử dụng thế hệ trẻ với tư cách là người đại diện cho tương lai, từ đó coi trọng việc động viên, khuyến khích, cổ vũ họ tích cực tham gia các phong trào cách mạng. Người nói: “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc”[4]. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Người trực tiếp động viên thanh niên học tập, rèn luyện để đủ sức làm chủ đất nước Việt Nam giàu mạnh, bởi “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[5].
Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, thanh niên cần phải rèn luyện đức tính kiên trì, không sợ khó, không sợ khổ, quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Những cố gắng của tuổi trẻ từ tiền tuyến đến hậu phương, từ nông thôn đến thành thị hay miền núi xa xôi, trong mọi tầng lớp, mọi ngành nghề: bộ đội, công an, công nhân, nông dân, trí thức... luôn được Người kịp thời động viên, khen thưởng. Chính vì vậy, thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh đã làm nên bao kỳ tích, góp phần tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi. Những kỳ tích đó đã chứng minh một chân lý: thanh niên là lực lượng không thể thiếu trong cách mạng dân tộc, dân chủ trước đây, cũng như trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
Không chỉ nhận rõ vai trò quyết định của thanh niên trong tiến trình lịch sử; cũng như khả năng cách mạng to lớn của thanh niên, hết lòng tin yêu thanh niên, Người còn luôn đặt thanh niên trong tư cách là một chủ thể đang phát triển, đang được tiếp tục hoàn thiện. Điều đó có nghĩa rằng thanh niên nói chung và trong mỗi cá thể nói riêng đều có cả mặt mạnh và mặt yếu, đều đang tiềm ẩn những khả năng to lớn cũng như những nhược điểm, thiếu sót của họ, giúp họ sửa chữa. Bởi, tâm lý tuổi trẻ tuy năng động, nhưng làm việc gì cũng muốn cố vượt quá sức của mình, giàu mơ ước nhưng dễ xa rời thực tế. Vì thế, thanh niên nên lượng sức mình trong khi làm việc và chú ý tới hiệu quả thực tế của việc mình làm. Người căn dặn: “Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được”[6]. Không những chỉ ra cho thanh niên nhận thấy những khuyết điểm, thiếu sót mà Người còn chỉ ra cho họ con đường khắc phục, sửa chữa: “Các cháu ít hay nhiều cũng có mang cái dấu vết của xã hội cũ, cái tư tưởng tiểu tư sản... cá nhân chủ nghĩa nó đẻ ra cái tư tưởng danh lợi, chỉ muốn làm ông này ông khác, bà này bà khác... là khinh lao động chân tay và khinh người lao động chân tay... sợ khó nhọc và sợ khổ. Muốn sửa chữa cá nhân chủ nghĩa thì khi làm bất kỳ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân đã”[7].
Chính sự ân cần, khuyến khích, động viên của Người đã khơi dậy ở thanh niên Việt Nam lòng yêu nước, tự hào dân tộc và trách nhiệm đối với Tổ quốc, với nhân dân, hợp thành lực lượng đông đảo đi theo tiếng gọi của Đảng, xung kích trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, không ngại khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh. Nhiều người đã ngã xuống một cách oanh liệt, để lại những giá trị tinh thần bất diệt như Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân..., làm cho cả thế giới khâm phục và sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Học tập và thực hiện tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong việc đánh giá thanh niên, chúng ta cần phải thấy được những cống hiến, trưởng thành của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm gần đây, khẳng định những tiềm năng to lớn của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng phải thấy rõ những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới có niềm tin lớn lao vào thanh niên và đề cao trách nhiệm đối với việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ trở thành những người “vừa hồng, vừa chuyên”, đủ sức gánh vác trọng trách mà cha anh để lại, tạo ra nhiều cơ hội để họ học tập, rèn luyện, lao động và phát triển.
Là lực lượng xung kích trực tiếp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thanh niên phải được lãnh đạo chặt chẽ, được quan tâm, giúp đỡ hàng ngày của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị-xã hội. Muốn làm được điều này, điều quan trọng hàng đầu là phải tin yêu thanh niên, dìu dắt, giáo dục họ thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Để chuẩn bị hành trang cho thế hệ trẻ vững bước đi lên trong thế kỷ XXI, chúng ta cần thấm nhuần lòng tin yêu thế hệ trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đánh giá một cách đúng đắn về thanh niên, luôn đổi mới thường xuyên cả nội dung, hình thức, phương thức và phong cách ứng xử với thanh niên để phát huy hết những ưu thế và sức mạnh tiềm tàng của họ. Chính vì thế, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải: “Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Hình thành lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”[8]. Tin yêu và tạo điều kiện cho thanh niên phát triển toàn diện là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nhằm bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN.


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.132-133.
[2] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 4, tr.33.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 9, tr.222.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 7, tr.398.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr.185.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr.186.
[7] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 9, tr.172.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.243.