Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Đoàn kết tôn giáo là một trong những cơ sở nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là bộ phận hữu cơ bảo đảm cho cách mạng giành được thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn vô cùng quý báu, là cơ sở, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, Nhà nước ta trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, cụ thể trên các nội dung cơ bản sau:  
 Một là, đoàn kết tôn giáo trên cơ sở lợi ích chung của dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân
Để bảo đảm sự đoàn kết giữa các lực lượng được bền chặt, thống nhất phải dựa trên cơ sở lợi ích, đó là sự kết hợp, giải quyết hài hòa giữa lợi ích dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, trong đó có bộ phận quan trọng là đồng bào giáo dân. Lợi ích đó là: Đất nước phải có độc lập, nhân dân phải được sống trong tự do, có đời sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng được học hành, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân. Trong cuộc tổng Tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh khẳng định: “tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”[1], và khi đất nước bị xâm lăng thì “bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc... Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[2]. Trong xã hội dân chủ, nhân dân có quyền lợi và nghĩa vụ trong thực hành dân chủ, Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người trực tiếp chỉ đạo xây dựng đã chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân”[3]... Những quyền đó phải đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân theo hiến pháp, pháp luật.
Hai là, thực hiện đoàn kết rộng mở
Hồ Chí Minh luôn chú trọng đoàn kết với đồng bào Công giáo là Việt kiều ở nước ngoài. Trong buổi nói chuyện với bà con Việt kiều, trong đó có đồng bào Công giáo nhân chuyến đi thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh đã nói rằng: phái đoàn sang đây mang đến cho đồng bào một món quà, không phải bánh trái, không phải tiền bạc mà là tinh thần dân tộc “Đoàn kết trên hết, Tổ quốc trên hết”. Đoàn kết những người cộng sản với những người theo tôn giáo. Khi trả lời cho câu hỏi người Công giáo có thể vào Đảng Lao động được không? Hồ Chí Minh đã trả lời: “Có. Người Công giáo nào cũng được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được”[4]. 
Ba là, tôn trọng niềm tin, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân-đó là quyền thiêng liêng, căn bản của mỗi người không ai được xâm phạm hoặc làm tổn hại. Quyền tự do ấy đã được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tức là, “mọi người có quyền tự do tin đạo hay không tin, không ái được cưỡng bách và khinh rẻ họ… Ngày nay chính sách của Đảng Cộng sản là bảo hộ tôn giáo và ngày sau cũng vậy”[5]. Mọi sự áp đặt, o ép và cưỡng ép đều là trái với quyền tự do tín ngưỡng và có nghĩa là vi phạm hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước ta. Tại chương II, mục B, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (năm 1946), đã ghi rõ: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Nếu ai làm sai Hiến pháp, khiêu khích công giáo sẽ bị phạt. Ngày 14/6/1955, Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo, trong đó khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, quyền theo hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào”, “tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo” và “khi truyền bá tôn giáo”, các tổ chức tôn giáo được sử dụng sách báo tôn giáo, được phép mở trường tư thục theo chương trình giáo dục của Chính phủ. 
 Bốn là, Đảng, Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống của giáo dân
Để tập hợp và đoàn kết tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến lợi ích thiết thực của giáo dân, cả phần đời và phần đạo, cả phần xác và phần hồn, bởi “phần xác có no ấm thì phần hồn mới thong dong”, cho nên nước độc lập mà dân không được ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Do đó, đồng bào và chiến sĩ cả nước phải quan tâm, chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo; Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện cuộc sống cho đồng bào, động viên, khuyến khích mọi người tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần; đồng bào lương, giáo phải đoàn kết cùng nhau lao động, sản xuất chăm lo xây dựng cuộc sống mới, hăng hái tham gia mọi công việc xây dựng Tổ quốc; tôn trọng niềm tin của đồng bào có đạo, bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa tôn giáo, các sinh hoạt tôn giáo.
Năm là, phát huy những yếu tố tương đồng
Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương phát huy những yếu tố tương đồng, khắc phục những dị biệt, kiên quyết tránh xúc phạm đến đức tin của đồng bào có tôn giáo. Điểm tương đồng ở đây, trước hết, giữa các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hy vọng giải thoát con người, mong muốn con người được sung sướng tự do, hạnh phúc. Người khẳng định: “Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”, “Đức Giê su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc”...; trong chế độ cũ, phần lớn các tín đồ tôn giáo đều là những người lao động bị áp bức bóc lột; ở họ đều có tinh thần yêu nước thực sự,... chính vì thế, họ là lực lượng của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tôn giáo mà Người còn tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội, chính là tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”; là xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, bởi vì, “Nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã”[6]. Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo không tách rời với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, cho nên, mọi người dân Việt Nam dù có tín ngưỡng hay không đều phải góp phần mình để giành và giữ nền độc lập nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tôn trọng những người đã sáng lập ra một số tôn giáo lớn và tranh thủ, cảm hóa các chức sắc cũng như quan tâm đến đồng bào có đạo, động viên họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc; tôn trọng, gạn đục, khơi trong, giữ gìn và tiếp biến những giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo lớn để làm phong phú, đa dạng nền văn hóa của dân tộc. Cùng với đó, Người luôn chủ trương giúp đỡ các tôn giáo lập ra các tổ chức yêu nước để phát huy nội lực đoàn kết yêu nước của họ. Ngày 15/3/1946, Người ký quyết định thành lập Việt Nam Phật giáo Hội; ngày 06/3/1946, Liên đoàn Công giáo Việt Nam ra đời.
Những việc làm trên của Người đã như một luồng sinh khí mới thổi vào tâm hồn của những tín đồ yêu nước kính Chúa, tôn thờ Đức Phật, khơi dậy lòng nhiệt tình cách mạng, xoá bỏ những rào cản giữa các tôn giáo để cùng cộng sinh, cộng hưởng, cộng đồng trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc.
Sáu là, mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo cũng như giáo dân phải trên cơ sở pháp luật
Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, nhưng không vì thế mà tôn giáo đứng ngoài pháp luật, các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo quy định tại Điều 11, Sắc lệnh số 234/SL về vấn đề tôn giáo đã ghi rõ: Khi phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, những giám mục, linh mục, nhà sư, mục sư, chức sắc có ruộng đất riêng phát canh thu tô như địa chủ, sẽ không quy định thành phần là địa chủ, nhưng phải thi hành đúng chính sách ruộng đất của Chính phủ... Hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước. Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ là nghĩa vụ công dân, xâm phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác trái pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân định rạch ròi thái độ, cách thức ứng xử theo các mức độ khác nhau, như đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo phản động cấu kết với nhau, đó là cuộc đấu tranh chống kẻ địch; đối với đồng bào tôn giáo làm sai chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ nhân dân; đối với kẻ lừa bịp, lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn, Chính phủ sẽ nghiêm trị; đối với những giáo hữu đã nhầm di cư vào Nam, Chính phủ đã ra lệnh cho địa phương giữ gìn cẩn thận ruộng vườn, tài sản của những đồng bào ấy và sẽ giao trả lại cho những người trở về; đối với chính quyền các cấp phạm sai lầm trong công tác dân vận, nhất là công tác tôn giáo, thì phải xử lý nghiêm minh.
Khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải trên tinh thần: kiên trì, nhẫn nại, chân tình. Nếu đã hết sức kiên trì mà không đạt kết quả thì phải kiên quyết, nghiêm khắc xử lý kẻ nào vi phạm Hiến pháp và khiêu khích bà con Công giáo, đồng thời, phải tỉnh táo phân biệt rõ bạn, thù để có cách ứng xử phù hợp, phải nắm vững nguyên tắc xử lý vấn đề công tác tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng ta; chủ động vạch trần mọi luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc, tay sai phản động... có như vậy mới giải tỏa hiểu lầm, tăng cường đoàn kết nhân dân.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành TW Đảng; Quốc hội khoá 11 đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/ PL-UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành nghị định số 22/2005/ NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 1940/ CT-TTg ngày 31/12/2008 “về nhà, đất liên quan đến tôn giáo” và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các bộ, ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Các chính sách, pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm cho quần chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời” tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng các tôn giáo trong lịch sử và vai trò, vị trí của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định:Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[7]. 
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì trong quá trình tổ chức thực hiện nơi này, nơi kia, còn có hiện tượng nhận thức nóng vội, chủ quan làm cho vấn đề trở nên phức tạp. Cùng với đó, thời gian qua vẫn còn xảy ra một số vụ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối trật tự công cộng, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng; muốn tách khỏi sự quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực: Xây dựng, sửa nơi thờ tự, hoạt động lễ hội, quan hệ với các tổ chức, cá nhân, tôn giáo nước ngoài; tranh chấp, khiếu kiện đòi lại nhà, đất và cơ sở thờ tự... Một số hoạt động và hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện trái pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thành lập hội đoàn, dòng tu... không xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đòi phục hồi các giáo hội đã bị Nhà nước giải thể... Một số địa phương, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống đối, kích động tín đồ, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, phân bố ở nhiều vùng miền trên phạm vi cả nước với số lượng tín đồ trên 20 triệu người, đây là một lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sẽ góp phần quan trọng trong việc “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Đặc biệt, trong những năm tới, Đảng ta dự báo, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mới, thì “nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp,... các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta...”[9]. Chính vì thế, việc xây dựng và phát huy sức mạnh của đồng bào giáo dân, theo chúng tôi, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá tốt đẹp của đất nước; phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, quan tâm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở các địa bàn có đông người theo đạo, vùng có đông người dân tộc thiểu số, vùng núi, biên giới và các xã, thôn, bản, ấp, phum, sóc đặc biệt khó khăn; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng; phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, trong công tác tuyên truyền cần chỉ rõ âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo để có tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các chức sắc tôn giáo, đồng bào theo đạo và các tầng lớp nhân dân nắm và hiểu đúng, đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo; cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo các cấp cần nắm chắc chính sách, pháp luật về tôn giáo; thực sự gần gũi, nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng tín đồ; tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vận động đồng bào giáo dân tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương; đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại để nhân dân thế giới và người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, tình hình tôn giáo ở trong nước.
Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo nhằm đưa ra cách ứng xử phù hợp, để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc góp phần tạo ra sự ổn định chính trị-xã hội, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực hiện vững chắc việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là điều cần thiết hơn bao giờ hết.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.8.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.480.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.593.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.115.
[5] Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên). Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr.294.
[6] Báo Cứu quốc, ngày 14-01-1946
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr.48.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.149.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI., sđd, tr.184-185.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA

Tham nhũng là vấn đề mang tính phổ biến, xuất hiện từ khi xã hội có nhà nước. Ngày nay, tham nhũng đang phát triển đến mức độ đặc biệt nguy hiểm, trở thành vấn đề nhức nhối của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, phòng, chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của mọi nhà nước.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong điều kiện hiện nay, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng phải có quyết tâm chính trị cao trong cuộc đấu tranh với nạn tham nhũng, lãng phí.
Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội, do vậy, quyết tâm chính trị của Đảng là điều kiện tiên quyết trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nói cách khác, tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Quyết tâm chính trị ở đây được hiểu là sự cam kết tuyên chiến với tham nhũng từ cấp cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hoá và công khai hoá để nhân dân giám sát chứ không chỉ dừng lại ở những nghị quyết, những lời nói mang tính hô hào, khẩu hiệu.
Bên cạnh cam kết chính trị ở cấp cao nhất, những nỗ lực chống tham nhũng lâu bền còn bao gồm sự cam kết từ các cơ quan của hệ thống chính trị, đặc biệt là những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong bộ máy đảng và nhà nước ở các cấp. Người đứng đầu các cấp có vị trí trực tiếp quyết định trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Khi người đứng đầu các cấp kiên quyết chống tham nhũng chắc chắn sẽ tập hợp xung quanh mình lực lượng mạnh mẽ chống tham nhũng.
Trước hết, người đứng đầu phải thực sự trong sáng, liêm chính, là tấm gương sáng về đạo đức lối sống, không chấp nhận tham nhũng. Sự trong sáng, liêm chính đó bắt đầu từ bản thân, tới tập thể những người thân xung quanh, gần nhất như: tập thể lãnh đạo, các cộng sự, cấp dưới trực tiếp, cho đến những người trong gia đình phải tạo thành tấm gương tập thể, chiếu vào cộng đồng xung quanh, tạo những vùng sáng liêm chính trong toàn xã hội. Đã đến lúc những cam kết này phải gắn liền với trách nhiệm chính trị của những người đứng đầu. Nếu ai không làm được thì kiên quyết thay bằng người khác.
Việc xây dựng quyết tâm chính trị phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đảm bảo Đảng lãnh đạo trong khuôn khổ luật pháp, không can thiệp vào các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử và kiên quyết xóa bỏ “vùng cấm” trong thực tế. Đảng cần phát huy dân chủ thực sự, nâng cao tính công khai, minh bạch về hoạt động của đội ngũ cán bộ các cấp, công khai địa chỉ, điện thoại, thư điện tử, tăng cường các mối quan hệ trực tiếp giữa người dân và cán bộ, đảng viên. Tăng cường các buổi tiếp dân, trực tiếp đối thoại với dân, không lựa chọn hay hạn chế diện người được tham gia tiếp xúc. Bên cạnh đó, cần thẩm tra lại những vụ thanh tra đã phát hiện tham nhũng nhưng sau đó lại kết luận chỉ xử lý hành chính, đưa ra xét xử công khai tất cả các trường hợp đúng người, đúng tội, không để lọt người, lọt tội, cũng không để oan sai.

Để chống tham nhũng thực sự đi vào chiều sâu, cũng cần mở một cuộc vận động trong quần chúng chống tham nhũng, tạo dư luận lên án buộc cơ quan chức năng phải xử lý mạnh mẽ các hành vi tham nhũng, làm cho những kẻ tham nhũng không tồn tại được và đội ngũ cán bộ, công chức phải nhìn nhận lại trách nhiệm của mình.
Vai trò của quyết tâm chính trị và sức ép dư luận là rất quan trọng, bởi nó sẽ trở thành động lực và tạo ra những ràng buộc thúc đẩy cho những quyết tâm chính trị. Và một khi quyết tâm chính trị được xây dựng sẽ tạo ra sức đề kháng bên trong một cách chủ động và tự giác của đảng cầm quyền và đòi hỏi những người đứng đầu Đảng, Nhà nước phải trở thành người tiên phong nhất, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ hai, đổi mới có hiệu quả nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước.
Phải khắc phục triệt để tình trạng đảng bao biện làm thay nhà nước, can thiệp quá sâu vào các công việc của nhà nước và cách thực hiện đó là phải sớm thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng về nội dung, phương thức, phạm vi và trách nhiệm của Đảng, phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ góp phần làm cho các cơ quan chống tham nhũng có đủ thực quyền.

Để thực hiện dân chủ trong xã hội thì trước hết phải đảm bảo dân chủ trong Đảng. Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải nói và làm đúng đường lối, nghị quyết của Đảng, kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, chống mọi biểu hiện vi phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân. Vì vậy, muốn phát động quần chúng đẩy lùi tham nhũng thì trước hết phải phát động dân chủ và thực hiện dân chủ trong Đảng và người đảng viên phải thực sự là người tiên phong, gương mẫu trong việc chống tham nhũng.
Tuy nhiên, để dân chủ thực chất, thực sự là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh với tham nhũng thì việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, như: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; dân chủ trong bầu cử, dân chủ quá trình ra quyết định, dân chủ trong quản lý, dân chủ trong kiểm tra và dân chủ trong bãi miễn cán bộ, đảng viên mất uy tín, đồng thời triển khai nó trong thực tiễn.

Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là tối thượng, không một cá nhân nào, không một tổ chức nào đứng trên pháp luật và ngoài pháp luật, tất cả đều phải tuân thủ pháp luật; mọi công dân và cơ quan nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật.

Hiện nay, để có cơ sở pháp lý cho đấu tranh với nạn tham nhũng, chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng như tổ chức hệ thống các cơ quan thực hiện. Vấn đề cơ bản hiện nay là khắc phục những rào cản trong quá trình thực thi pháp luật, trước hết là Luật Phòng, chống tham nhũng được thực thi một cách hiệu quả.
Hơn nữa, cần thực hiện đồng bộ hệ thống luật pháp liên quan đến phòng, chống tham nhũng như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Hình sự, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán, Quy chế dân chủ ở cơ sở..., khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng tổng kết thực tiễn, rà soát lại hệ thống các chủ trương, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về chống tham nhũng, tiêu cực, phát hiện và khắc phục những sơ hở, thiếu đồng bộ trong các văn bản, những yếu kém trong khâu lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và đề ra những giải pháp khắc phục. Có như vậy chúng ta mới dần loại bỏ được những cơ hội nảy sinh tham nhũng.
Thứ ba, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Việc xây dựng các thể chế này càng cụ thể và càng chặt chẽ bao nhiêu thì quyền lực càng bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu, đặc biệt là trong các lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng. Tham nhũng là căn bệnh của nhà nước, thể hiện sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Do vậy, để việc phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, có sự chuyển biến về chất thì các giải pháp đưa ra phải tập trung vào cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực bị giới hạn theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật, khắc phục tình trạng lạm quyền, chuyên quyền trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Có như vậy mới xóa bỏ được gốc rễ của những nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Thứ tư, tăng cường hoạt động giám sát của người dân, các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội dân chủ. Có thể thấy, nạn tham nhũng tỷ lệ nghịch với quá trình thực hiện dân chủ, nơi nào mà quyền làm chủ của nhân dân được phát huy thì ở đó tham nhũng bị hạn chế ở mức thấp nhất và ngược lại.

Nhưng dân chủ ở đây phải là dân chủ thực chất, nghĩa là người dân có quyền lực thực sự trong việc chủ động tham gia các công việc của nhà nước và nhà nước cũng phải có trách nhiệm để bảo đảm các quyền làm chủ của nhân dân.
Để dân chủ thực sự là phương thức kiềm chế hiệu quả nạn tham nhũng, tiêu cực, các giải pháp cần thực hiện là: Nhà nước cần thể chế hoá cụ thể và chặt chẽ các quy định cũng như cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, qua đó phản ánh, kiến nghị, tố cáo những hành vi tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là thực hiện quyền bãi miễn của mình đối với những cán bộ tham nhũng; phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông; đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời mạnh dạn thí điểm và nhân rộng các hình thức động viên nhân dân tham gia đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của nhân dân, ban hành những quy định, cơ chế bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh này.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bãi bỏ cơ chế xin - cho tài chính, bao cấp, chủ quản đối với doanh nghiệp, hình thành cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh đa dạng hóa các hình thức sở hữu, xoá bỏ tính chất “vô chủ” trong tất cả các lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, giảm tính độc quyền của các doanh nghiệp. Xử lý nghiêm các hợp đồng kinh tế có yếu tố tham nhũng.
Thứ sáu, đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức, từng cá nhân cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu quản lý hành chính nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong thời kỳ mới. Đồng thời cải tổ các cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu bộ máy quan liêu cũng như cơ hội cho tham nhũng.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động hành chính vốn có tác động trực tiếp đến quyền lợi thân thiết của người dân và doanh nghiệp; cải cách tài chính công để tạo ra các cơ quan giám sát hiệu quả được trang bị những kỹ năng về kế toán và kiểm toán cũng như cải cách việc mua sắm và quản lý tài sản công nhằm tạo ra những thủ tục công bằng, công khai và hiệu quả trong sử dụng tài sản công.
Thứ bảy, xây dựng và thực hiện một nền đạo đức công vụ trong toàn bộ hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức.
Tập trung xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử đảm bảo sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức công chức để hình thành các chuẩn mực đạo đức công vụ đúng đắn - nhân tố quan trọng để cán bộ, công chức miễn dịch với tệ tham nhũng bằng cách: Đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức; khuyến khích và tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước của cán bộ, công chức; khắc phục thói vô cảm, ích kỷ, vụ lợi trong khi thực hiện công vụ, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân... Đây là một công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài; phải tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; kết hợp giáo dục, tự giáo dục, xây và chống.
Nhanh chóng điều chỉnh, cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức làm cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương.
Đổi mới công tác cán bộ, hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng. Công khai hoá quá trình tuyển chọn, sử dụng, đánh giá cán bộ, công chức. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, lượng hoá kết quả học tập nhằm góp phần giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Trong bố trí, sắp xếp cán bộ, phải chấm dứt ngay tình trạng thiếu dân chủ, mang tính áp đặt, hiện tượng cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ trong các tổ chức đảng, chính quyền.
Nâng cao nhận thức xã hội về những biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng; tuyên truyền cho người dân nhận diện các hành vi tham nhũng, thái độ căm ghét và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Đấu tranh với nạn tham nhũng là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, lâu dài, nhưng đang là một yêu cầu bức thiết, sống còn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và đòi hỏi quyết tâm chính trị rất cao mới thực hiện được.
Nếu không đẩy lùi được “quốc nạn” này thì sự chệch hướng, mất vai trò lãnh đạo của Đảng không còn là nguy cơ nữa.
Phân tích đúng nguyên nhân, nêu rõ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh này là cần thiết để góp phần thực hiện thắng lợi cuộc chiến chống tham nhũng. Đẩy lùi nguy cơ tham nhũng là sự tự đẩy lùi, tự đề kháng ngay trong Đảng, trong Nhà nước.  


Thứ Tư, 12 tháng 10, 2011

SỰ PHÁT TRIỂN TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRUYỀN THỐNG ĐẾN CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÔ SẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - một giá trị văn hóa cao quí, chi phối đời sống tinh thần đạo đức, tư tưởng, tình cảm của mỗi người Việt Nam. Cùng với sự phát triển dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không những được lưu giữ, truyền lại qua nhiều thế hệ mà còn thường xuyên được củng cố, bổ sung, bồi đắp thêm nội dung mới cho phù hợp với mỗi thời đại lịch sử. Trong xu thế toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu sự phát triển từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh càng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhằm phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, đoàn kết cộng đồng, ý thức dân tộc, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình trí thức nho học, trên một vùng quê nghèo khó về kinh tế nhưng rất giàu truyền thống chống giặc ngoại xâm. Thời thơ ấu, Người đã nhận được sự giáo dục sâu sắc về lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm yêu thương con người và sự tác động mạnh mẽ từ truyền thống yêu nước thương dân, truyền thống đoàn kết toàn dân. Người đã ý thức sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với sự bình yên của xóm làng và đời sống hạnh phúc mỗi gia đình được vun trồng trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể nói, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hiện hữu trong con người Hồ Chí Minh. Bởi vậy, những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” trên lá cờ cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789) mà Người được nghe trong Trường tiểu học Pháp - Bản xứ ở Thành phố Vinh (1905) như ánh sáng hải đăng có sức hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ.
Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy mặt hạn chế không thể khắc phục được của các xu hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản mà các vị tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu sử dụng. Người nhận xét cụ Phan Chu Trinh dựa vào Pháp để canh tân đất nước, điều đó là sai lầm, “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng “còn nặng cốt cách phong kiến”[1]. Thực tế lịch sử cho thấy, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được hình thành, củng cố và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhưng trong thời đại mới, tư tưởng, tình cảm yêu nước và hành động cứu nước dù có cao đến đâu nếu dựa trên lập trường giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản thì vẫn bị bế tắc. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam cần được chiếu sáng của lý luận Mác-Lênin trong sự kết hợp với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt xa tầm nhìn về thời cuộc của các nhà yêu nước đương thời. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước theo một phương hướng mới, đến nước Pháp tìm hiểu chính kẻ thù đang áp bức dân tộc mình. Chứ không phải như một số quan điểm cho rằng trước khi sang Pháp Hồ Chí Minh muốn đi theo con đường cứu nước của cụ Phan Chu Trinh. Với nhãn quan chính trị sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc về độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, biết phê phán tư tưởng và xu hướng cứu nước sai lầm trước đó, biết kế thừa chọn lọc tình cảm yêu nước nồng thắm của người Việt Nam làm hành trang ra đi tìm đường cứu nước gắn với cứu dân khỏi đêm đen nô lệ. Vì vậy, Người đã tiếp cận được chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công.
Ngày 5-6-1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Văn Ba xuống tàu Amiran Catusơ Tơrêvin làm phụ bếp, mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản ở Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động thực tiễn ở nhiều nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân các dân tộc thuộc địa và cũng đã thấy sự bất công ngay trên các nước tư bản phát triển. Người khẳng định: ở Pháp cũng những người Pháp tốt, ở Pháp cũng có người ngèo như ở bên ta, những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Qua đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm hình thành tình cảm quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu nước vốn có trong Hồ Chí Minh bắt đầu mang một tình cảm mới, làm cơ sở cho chủ nghĩa quốc tế vô sản của dân tộc Việt Nam sau này. Đó là sự đồng cảm, đau xót cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và người lao động bị áp bức bóc lột dã man. Chính do sự thông cảm, yêu thương những người cùng khổ mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Hồ Chí Minh dần dần được hình thành - một tình cảm cách mạng, mang tính nhân văn sâu sắc. Sau đó Người khẳng định: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[2].
Năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lấy tên là Nguyễn ái Quốc) thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nội dung Bản yêu sách đó nêu lên là đòi quyền tự do dân chủ cho mọi người dân gắn với quyền tự quyết dân tộc thiêng liêng của họ. Yêu cầu thích đáng của nhân dân Việt Nam trong Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng đã gây một tiếng vang lớn trong nhân dân Pháp và các nước thuộc địa. Bản yêu sách được in thành những truyền đơn phân phát trong các cuộc mít tinh của nhân dân Pháp, phát cho tất cả các việt kiều và bí mật gửi về Việt Nam. Nhờ đó, nhiều người Pháp đã hiểu thêm về Việt Nam. ý thức dân tộc, dân chủ của nhân dân Việt Nam cũng được thức tỉnh tạo tiền đề cho việc tập hợp lực lượng cách mạng trong nước và mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam chống chủ nghĩa đế quốc.
Từ những nhận thức rút ra trong thực tiễn gần mười năm tìm đường cứu nước, tháng Bảy năm 1920 khi đọc Sơ thảo lần nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy lời giải đáp của Lênin và Quốc tế Cộng sản về con đường giải phóng dân tộc. Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[3]. Sự kiện lịch sử Hồ Chí Minh đọc Luận cương của Lê-nin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa là mốc đánh dấu Người tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước hết, sự kiện này tạo nên một bước nhảy vọt lớn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong lập trường chính trị và tư tưởng cứu nước của Người, hình thành ở Người chủ nghĩa yêu nước kiểu mới dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, chủ nghĩa yêu nước vô sản của Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa các mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp và quốc tế, thể hiện tập trung ở mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc gắn liền với mục tiêu và con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời, hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh trong những năm 1911 đến 1920 là quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, với mục tiêu chung phấn đấu cho độc lập tự do của dân tộc, ấm no hạnh phúc của nhân dân đến mang tình cảm quốc tế trong sáng, sau đó hòa quyện trong chủ nghĩa cộng sản là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng, tình cảm yêu nước của Hồ Chí Minh. Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin thì chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được nâng lên, tỏa sáng trên lập trường giai cấp công nhân. Từ đây chủ nghĩa Mác-Lênin có điều kiện thâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930.
Suốt hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không ngừng bồi đắp những giá trị mới cao đẹp hơn. Tư tưởng và tình cảm yêu nước của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sức mạnh lớn lao trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 13.
[2] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 192.
[3] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 83.

TINH THẦN YÊU NƯỚC-ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích vĩ đại. Hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc dân tộc ta không bị đồng hóa; nhân dân ta đã chiến đấu đánh thắng những đế chế phong kiến phương Bắc và nhiều thế lực đế quốc lớn phương Tây; xây dựng đất nước ngày một thịnh vượng. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuy diễn ra trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và phức tạp, nhưng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vị thế của đất nước, của dân tộc ngày càng được củng cố và nâng cao trên trường quốc tế.
Điều gì dẫn đến những kỳ tích lớn lao đó? Điều gì đã tạo ra động lực cho sự nghiệp đổi mới phát triển như vậy? và động lực nào cho sự phát triển của đất nước ở thế kỷ XXI? Nội dung của câu trả lời có tính chất xuyên suốt nhất, bao trùm nhất cho các vấn đề ấy nằm trong chính giá trị chủ đạo của dân tộc - tinh thần yêu nước Việt Nam.
Hơn lúc nào hết, trong tình hình hiện nay đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển đất nước ở thế kỷ XXI, trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực chống phá Việt Nam, trước sự tác động ngày càng mạnh mẽ của tình hình thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng sâu rộng, chúng ta càng phải hiểu đúng giá trị tinh thần yêu nước Việt Nam và phát huy nó trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1. Việt Nam là đất nước nông nghiệp với nền sản xuất trồng lúa nước là chủ yếu. Nhu cầu cơ bản của nền sản xuất trồng lúa nước là vấn đề trị thủy. Với đặc điểm địa lý - tự nhiên của Việt Nam, quá trình trị thủy, đấu tranh chống thiên tai, bão lụt, chống hạn không chỉ bằng sức mạnh của một tộc người, một dòng họ, của một làng hay một xã, của một vùng riêng biệt và càng không thể bằng sự cố gắng riêng lẻ của từng gia đình. Quá trình ấy đòi hỏi phải có sự cố kết cộng đồng, sự đoàn kết của tất cả các tộc người. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, các dân tộc có lịch sử sinh thành và tụ cư vào các thời điểm khác nhau nhưng đã sớm hòa đồng trong cuộc sống chung. Sự chung sức, chung lòng chống thiên tai, xây dựng và bảo vệ đất nước đã hình thành ý thức cộng đồng chung. Ý thức cộng đồng chung ấy dần dần phát triển và được nâng lên thành ý thức cộng đồng lớn hơn, đó là ý thức quốc gia dân tộc. Cho nên tinh thần yêu nước Việt Nam được nảy nở và nuôi dưỡng từ ý thức cộng đồng, từ tình yêu làng, xã. Vì vậy, yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu quê hương, yêu làng xã, yêu nhà - gia đình. Do đó, mối quan hệ Nhà - Làng - Nước là mối quan hệ thống nhất, bền chặt, thể hiện xoắn xuýt trong nội dung của tinh thần yêu nước Việt Nam. Nhà - Làng - Nước là cái trục chính để từ đó nhân lên tinh thần yêu nước đáp ứng mọi đòi hỏi của lịch sử.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tiếp và thường phải đối phó với kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh. Đó là đặc điểm nổi bật của dân tộc ta. Để tồn tại, để chiến thắng các kẻ thù lớn mạnh hơn, người Việt Nam phải đoàn kết, phải “chung lưng, đấu cật” với nhau. Ý thức cộng đồng, tinh thần yêu nước được củng cố và phát huy nhằm đáp ứng yêu cầu đó; và qua các thử thách ác liệt của chiến tranh, giá trị của tinh thần yêu nước Việt Nam càng được tỏa sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sống vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Đây là cơ sở tinh thần của dân tộc ta tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù. Điều đó cắt nghĩa vì sao một dân tộc đất không rộng người không đông như dân tộc Việt Nam mà lại chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn gấp nhiều lần.
Có thể thấy rằng chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không phải chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh mới được khẳng định mà nó luôn luôn là lẽ sống của dân tộc suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử.
Như vậy, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển bởi quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, được nảy nở và nuôi dưỡng từ ý thức cộng đồng, từ tình yêu làng, xã. Đến lượt mình tinh thần yêu nước đó hướng vào phục vụ và là động lực xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng và bảo vệ quê hương, làng, xã, gia đình, hướng vào việc phát triển ý thức cộng đồng, ý thức quốc gia - dân tộc.
2. Từ xa xưa, dưới thời phong kiến, yêu nước của dân tộc ta cũng không hoàn toàn đồng nghĩa với chủ nghĩa trung quân. Trung quân là trung với Vua, với dòng họ đương quyền. Khi Vua ấy là minh quân, dòng họ ấy là tiến bộ, tiêu biểu cho dân tộc thì yêu nước là trung quân, trung quân gắn với ái quốc. Nhưng khi triều đại ấy lạc hậu, suy đồi phản bội lại lợi ích dân tộc thì nhân dân lại chọn Vua khác, bộ phận lãnh đạo khác tiến bộ hơn đại diện xứng đáng cho dân tộc. Như thế cho thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là lợi ích bao trùm, trên hết và chi phối; đồng thời là “hoạt chất” để sàng lọc những giá trị yêu nước đích thực và giả hiệu.
Yêu nước là giá trị cao nhất trong bảng thang giá trị của bản sắc dân tộc Việt Nam trong tất cả các giai đoạn lịch sử, là thước đo giá trị của từng con người, từng công dân trước cộng đồng.
Tinh thần yêu nước Việt Nam không phải là một tư tưởng chung chung, trừu tượng mà bao giờ cũng có nội dung cụ thể hàm chứa những tình cảm thương yêu “giống nòi”, yêu nước bao giờ cũng gắn với thương dân. Tìm đường cứu nước cũng chính là tìm đường cứu dân. Xây dựng đất nước phồn vinh cũng chính là chăm lo hạnh phúc cho dân. Giải phóng dân tộc, cũng chính là giải phóng cho dân thoát khỏi gông xiềng nô lệ để vươn lên làm chủ. Độc lập tự do thì dân phải ấm no, hạnh phúc; đất nước mạnh giàu thì dân phải được giàu có, xã hội phải công bằng văn minh. Tất cả sự nghiệp ấy đều vì dân, đồng thời cũng chính do dân làm nên.
Như vậy, tinh thần yêu nước của dân tộc ta chứa đựng giá trị nhân văn rất cao cả. Hành động vì nước, vì dân là thước đo cao nhất của giá trị yêu nước Việt Nam.
Tinh thần yêu nước truyền thống của nhân dân ta từ khi có Đảng được kết hợp chặt chẽ với tinh thần yêu chủ nghĩa xã hội, vì vậy tinh thần yêu nước mang chất lượng mới, sức mạnh mới.
3. Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có những biến động phức tạp, khó lường, các nấc thang giá trị sẽ có nhiều thay đổi. Nhưng lời giải cho động lực phát triển của dân tộc ta vẫn không nằm ngoài việc phát huy nội lực, sức mạnh bên trong của cả dân tộc, trong đó nhân tố con người với tinh thần yêu nước được trang bị nội dung mới đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Để phát huy vai trò động lực của tinh thần yêu nước đáp ứng đòi hỏi của điều kiện lịch sử mới, vấn đề trước hết là phải không ngừng bồi đắp tinh thần yêu nước truyền thống những nội dung mới, nâng nó lên theo yêu cầu của lịch sử.
Làm thế nào để phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong điều kiện lịch sử mới.
Bài học “lấy dân làm gốc”, “khoan thư sức dân” có vị trí quan trọng hàng đầu, là điểm cần “khai thông” trước hết và chủ yếu. Về vấn đề này, Đảng ta đã đề ra phương châm đúng đắn và khoa học: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phương châm này đã và đang là cơ chế vận động trong đời sống xã hội ta. Thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở” là một bước cụ thể hóa của cơ chế ấy. Sự vận động có hiệu quả của cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” sẽ tạo ra động lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến hành. Đó là con đường phá bỏ mọi ách tắc để cho tinh thần yêu nước được thể hiện ra bằng hành động cách mạng sinh động của mọi người dân Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế sự vận động của cơ chế này vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, vi phạm dân chủ vẫn diễn ra ngày càng trầm trọng, làm sói mòn lòng tin của dân đối với Đảng, làm “nguội lạnh” nhiệt tình yêu nước của người dân. Vì thế, điểm “mấu chốt” cần khai thông ở đây lại là vấn đề chống tham nhũng, quan liêu, mất dân chủ.
Thật là đúng lúc và có ý nghĩa, Đảng ta đã chọn đúng vấn đề, phát động cuộc vận động “xây dựng chỉnh đốn Đảng”. Có thể nói đó là cuộc vận động xuyên thế kỷ để tạo ra động lực cho dân tộc Việt Nam phát triển ở thế kỷ XXI. Như vậy, cuộc vận động này, xét về ý nghĩa còn là nhằm khai thông những ắch tắc, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước trong mỗi người dân. Vấn đề hiện nay là toàn Đảng, toàn dân với tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc thực hiện một cách có hiệu quả cuộc vận động này. Và do vậy, vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên càng trở nên quan trọng.
Muốn khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước ở mỗi người dân, một vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay là phải tích cực đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, tuyên truyền về tinh thần yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở: “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có cất dấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn vận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[2].
Như vậy, công tác giáo dục, tuyên truyền tinh thần yêu nước phải tiến hành thường xuyên, liên tục, không được lúc nào ngừng nghỉ. Giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc là vấn đề không bao giờ cũ cả. Cần phải giáo dục mãi, giáo dục nhiều, không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng làm bật dậy từ trong sâu sa nhất của mỗi cọn tim, khối óc lòng tự hào dân tộc, ý thức quốc gia - dân tộc, làm cháy lên ngọn lửa nhiệt tình yêu nước trong mỗi con người, trong mọi tầng lớp xã hội, sự khát khao cống hiến vì sự phồn vinh của dân tộc, vì sự thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mỗi thế hệ Việt Nam với truyền thống yêu nước của mình đều có thể đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở thế hệ hôm nay vì trong họ luôn có thành tố yêu nước.
[1] Hồ Chí minh toàn tập, tập 6. Nxb CTQG. H. 1995, tr. 171
[2] Sđd, tr. 72

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN BẢO VỆ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Nghị quyết Trung ương 5, khóa X, ngày 01/8/2007 “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, thực hiện đa nguyên chính trị, hình thành lực lượng đối lập, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch; thường xuyên cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ tự diễn biến ở cả trung ương và các ngành, các cấp”[1].
Đảng ta nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo chuyển biến căn bản trong việc ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền phản động, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng”[2].
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các văn bản của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ này, đã thể hiện nhất quán 3 quan điểm cơ bản của Đảng ta trong cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch:1. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng hiện nay.2. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng-văn hóa của Đảng.3. Đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp.
Xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản là âm mưu cơ bản, lâu dài và được đầu tư công phu của các thế lực cơ hội, thù địch. Trong những năm gần đây, chúng ngày càng ráo riết đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta dưới nhiều hình thức, chiêu bài khác nhau, trong đó việc lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống truyền thông, đặc biệt là internet ngày càng đem lại hiệu quả lớn cho việc tuyên truyền, xuyên tạc của chúng.
Theo số liệu thống kê đầu năm 2010, hiện tỷ lệ người sử dụng internet ở VN vào khoảng 26% dân số, tức khoảng 28 triệu người dùng, trong đó các hoạt động trực tuyến cho thấy trên 90% là đọc tin tức, sử dụng trang web tìm kiếm thông tin và dự báo con số này còn tăng lên rất nhanh trong tương lai gần. Rõ ràng, mạng internet mang lại lợi ích không giới hạn cho người sử dụng. Tuy nhiên, nếu mạng internet được sử dụng như một công cụ phản văn minh nhằm thực hiện những mưu đồ xấu như: tuyên truyền một cách xuyên tạc để hạ thấp uy tín của một cá nhân, một tổ chức hoặc thậm chí là một quốc gia thì tác hại của nó vô cùng lớn.
          Hiện nay, trên mạng internet xuất hiện nhiều luồng tư tưởng xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó tiêu biểu là.
Loại thứ nhất, họ cho rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là mớ lý thuyết hỗn độn nhằm đề cao, sùng bái cá nhân; là một di hại to lớn của lịch sử, cần phải được vạch trần, lên án” (qua phim Sự thật Hồ Chí Minh) và họ còn lớn tiếng tuyên bố: Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng, nhà văn hóa vì Hồ Chí Minh không hề có một hệ tư tưởng riêng mà chỉ rập khuôn các tư tưởng sẵn có của người khác. Từ đó, quan điểm này khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam đẩy mạnh việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm hợp lý hoá cái gọi là nền tảng tư tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam một cách chủ quan, duy ý chí và cố gắng tìm ra sản phẩm của dân tộc để thay thế cho một học thuyết ở phương Tây đã cáo chung.
Loại thứ hai, họ cho rằng: Hồ Chí Minh không có tham vọng là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận, Người chỉ là một nhà tổ chức, một nhà hoạt động thực tiễn, mặc dù có kèm theo sau đó những tính từ như “to lớn”; “kỳ tài”; “thiên tài”.
Jean Lacouture viết: “Vị lãnh tụ của Việt Nam không tỏ ra là một nhà lý luận và hình như ít chú ý về mặt này, thậm chí còn tỏ ra khó chịu hoặc coi thường những cuộc tranh luận về chủ nghĩa…”[3]. Đọc tác phẩm của Hồ Chí Minh, ông ta đưa ra nhận xét: Không thấy những tiểu luận dài có tính lý luận khái quát mà chỉ thấy một chuỗi nghiên cứu chính trị cụ thể, những bài khái lược, những bản báo cáo khả dĩ cho chúng ta thấy rõ một sự quan tâm thường xuyên nhằm xâm nhập thời cuộc… Từ đó, cho rằng “sự nghiệp kỳ lạ của Cụ Hồ không ở chiều độ tư tưởng của nó… Cụ chỉ là một “người điều khiển kỳ tài”, một “người khéo tay thiên tài”. Ông ta còn gọi Cụ Hồ là một “người cộng sản cấu trúc” vì đã dành cả cuộc đời của mình để “xây đắp, nhào nặn, tạo dựng phong trào”[4].
          Bemard fall thừa nhận: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có học thức uyên thâm, nhưng không bao giờ là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận.
Philippe Devillers cho rằng: Thành công của những người mácxít ở Việt Nam không phải là ở học thuyết của họ mà ở hiệu lực của hệ thống mà họ đã lập nên. Tức là không phải nhờ sức mạnh của tư tưởng, lý luận mà là nhờ tài khéo léo về tổ chức.
Nhìn chung các quan điểm phản diện trên đều cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận. Thực chất các quan điểm đó nhằm hạ thấp vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận quan điểm của Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, tư tưởng kim chỉ nam cho hành động.
          Để đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái trên, chúng ta phải khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta. Điều đó, phải được luận giải trên một số vấn đề cơ bản sau:
          Thứ nhất, phải luận giải tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.  
Từ một thanh niên thuộc địa, mất nước, ra đi tìm đường cứu nước, mục tiêu trước mắt của Người là giải phóng dân tộc. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện chủ nghĩa đã trở thành một hệ thống thế giới, các dân tộc thuộc địa có thể bằng con đường nào để thắng lợi? Dưới ánh sáng luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, với tấm gương Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới”[5]. Người đưa ra hình ảnh so sánh nổi tiếng, “chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, do đó cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhành như hai cánh của một con chim”[6]. Vì, bóc lột thuộc địa là một trong hai nguồn sống của chủ nghĩa đế quốc, cho nên muốn đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, trước hết phải xoá bỏ thuộc địa của chúng. Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà phải tiến hành song song. Hơn nữa, nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gặt bỏ sự đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, Họ sẽ hình thành lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[7]. Trên nền tảng lý luận đó, Người đã cùng với Đảng ta đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề  về chiến lược và sách lược dẫn đến thắng lợi lịch sử của Cách mạng Tháng Tám.
Thứ hai, phải luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đây là luận điểm trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó thâm nhập và xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người trong các thời kỳ và trên mọi lĩnh vực.
Ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam mới thành lập, trong Chính cương vắn tắt do Người khởi thảo, đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong tiển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triên cách mạng xã hôi chủ nghĩa thì mới giải phóng hoàn toàn”[8]. Độc lập dân tộc gắp liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ phát huy tác dụng trong giai đoạn Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc  mà còn xuyên suốt quá trình tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và trong nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Nắm được nội dung tư tưởng ấy, quán triệt đúng nguyên tắc chiến lược ấy của Người là cơ sở phương pháp luận để hiểu được con đường phát triển của cách mạng nước ta, đồng thời giúp chúng ta hiểu rõ những nguyên nhân sâu xa và biểu diễn phức tạp của tình hình thế giới hiện nay. Cũng trên cơ sở ấy, hiểu rõ vì sao Đảng ta lại kết hợp tốt sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta. Chân lý độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh và được cách mạng Việt nam vận dụng thành công đã khẳng định đó cũng là chân lý lớn của thời đại.
          Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một đóng góp của cách mạng Việt nam trong kho tàng chủ nghĩa Mác – Lê-nin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại hiện nay.
          Thứ ba, phải làm rõ những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất, đăc trưng, về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
          Người nói : “Muốn biết ta tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào thì trước hết phải biết chủ nghĩa xã hội là gì”.
          Theo Người, “mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu,  nước mạnh, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã hội do dân lao động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là sự tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân, trong đó, con người mới xã hội chủ nghĩa được phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, đạo đức và tinh thần. Tiến lên chủ nghĩa xã hội “là yêu cầu cấp bách của hàng chục triệu người lao động, là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng” “ Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liên với yêu chủ nghĩa xã hội, vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”[9].
          Xuất phát từ đặc điểm nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đất nước tạm thời bị chia cắt, lại có chiến tranh, Người đề ra chủ trương: vừa kháng chiến vừa kiến quốc vừa chống Mỹ, cứu nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sáng tạo độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
          Đặc biệt, Người thường xuyên nhắc nhở phải đề phòng cách làm rập khuôn, giáo điều ; cần xuất phát từ thực tế để tìm ra con đường đi riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm nước ta. Người nói : “Hiện nay, đứng về mặt xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy chúng ta có những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể áp dụng những kinh nghiệm đó một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc điểm riêng của ta”[10].
          Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới hiện nay nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
          Thứ tư, phải làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền.
Muốn đưa cách mạng đi tới thắng lợi, theo Hồ Chí Minh “Trước hết, phải có Đảng cách mện, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng mới thành công”.[11] Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản lãnh đạo là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng ta ra đời từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, giữa lúc phong trào yêu nước đang diễn ra sôi nổi. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương năm 1930. Người nói Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ, nó được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin, trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hôih hữu khuynh và tả khuynh. Người cũng chỉ rõ: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân của toàn thể nhân dân lao động chứ không phải mưu cầu cho lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[12]. Để xứng đáng là Đảng lãnh đạo, Người yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thành một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Trong điều kiện Đảng cầm quyền để dề phòng nguy cơ thoái hoá, biến chất. Người luôn luôn nhấn mạnh người đảng viên phải “suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân”[13]. Có thể nói, lần đầu tiên trong các Đảng cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng Đảng phải xứng đáng vừa là người lãnh đạo sáng suốt, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Muốn thế, Người đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Những tư tưởng đó, đã, đang và sẽ là kim chỉ nam soi đường cho cách mạng nước ta.
          Đó là những tư tưởng cơ bản đấu tranh, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế hiện nay. Những tư tưởng đó, đã được lịch sử kiểm chứng và khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Vịêt Nam. Mỗi người Việt Nam phải có trách nhiệm bảo vệ, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy lòng yêu nước, ý chí quật cường bất khuất của dân tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới trong thời đại mới, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.  


[1] Văn kiện Hội nghị Trung ương 5, khóa X, Nxb CTQG, H, 2007, tr.45
[2] Văn kiện Hội nghị Trung ương 9, khóa X, Nxb CTQG, H, 2009, tr.187-188
[3] J. Lacouture: Hå ChÝ Minh, Ed.Seuil, Paris, 1967, tr.200.
[4] . Lacouture: Hå ChÝ Minh, s®d, tr.181, 200.
[5] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,IX
[6] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,IX
[7] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,X
[8] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,X
[9] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XII
[10] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XII
[11] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 2. tr,267- 268
[12] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XIV
[13] Hå ChÝ Minh, toµn tËp, Nxb CTQG, 2000, tËp 1. tr,XIV