Xây dựng và phát triển đội ngũ
trí thức vững mạnh là trực tiếp góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh
của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của
hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển
bền vững. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn ấy, đội ngũ trí thức phải
được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng. Trong hàng loạt các biện pháp
xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức hiện nay thì việc đấu tranh nhằm khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông có
vai trò quan trọng góp phần nâng cao phẩm chất cách mạng, năng lực chuyên môn,
bản lĩnh khoa học... cho đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ
trong tình hình mới.
Cơ cấu đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay rất đa
dạng, trong đó không thể không kể tới những trí thức được đào tạo dưới chế độ
thực dân, phong kiến. Điều đó khó tránh khỏi “một bộ phận trí thức, ở mức độ
khác nhau còn chịu ảnh hưởng các các mặt hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến,
kinh tế tiểu nông...”[1]
trong quá trình phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay. Để cuộc đấu
tranh khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu
nông ở đội ngũ trí thức có kết quả, trước hết phải nhận rõ những ảnh hưởng
tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến, kinh tế tiểu nông ở đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện nay.
Khi phân tích, Đảng lao động
Việt Nam với lao động trí óc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, “chúng
ta phải thật thà nhận rằng: về chuyên môn và trong mức nào đó, thì anh chị em
trí thức khá. Song, vì ngày trước, anh chị em bị giáo dục trong đường lối và
khuôn khổ thực dân và phong kiến, cho nên tư tưởng và lề lối làm việc của anh
chị em không khỏi ảnh hưởng của thực dân và phong kiến”[2].
Thực tiễn cách mạng đã cho thấy, mặc dù chính quyền của thực dân, phong kiến đã
bị cách mạng đánh đổ mấy mươi năm nay, song, ý thức hệ và những tâm lý, tập
quán phong kiến vẫn còn tồn tại dai dẳng trong đời sống, đeo bám vào các tầng
lớp trong xã hội, trong đó có đội ngũ trí thức. Quá trình phát triển nhiều trí
thức đã tự mình “gột rửa” những “tàn tích” phong kiến và vươn lên trở thành
những trí thức chân chính, góp phần tích cực vào công cuộc giải phóng dân tộc,
xây dựng và BVTQ. Vì vậy, họ được xã hội trân trọng, “đồng bào kính trọng,
Chính phủ và đoàn thể nêu cao”[3].
Song, bên cạnh đó còn những trí thức bị ảnh hưởng những tư tưởng và lề lối làm
việc phong kiến, tự trói buộc mình trong những giáo điều đã lỗi thời nên tự họ
đã hạn chế tài năng của mình trên lĩnh vực khoa học và do đó không góp được
nhiều công sức, trí tuệ cho sự nghiệp khoa học, thậm chí có những trí thức còn
trở thành vật cản của công cuộc đổi mới.
Như vậy, có thể thấy những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến
và kinh tế tiểu nông đối với tư tưởng và lề lối làm việc của trí thức hiện
nay vẫn còn, trong đó tập trung chủ yếu vào mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, hệ tư tưởng phong kiến và kinh tế tiểu
nông đã hạn chế sự phát triển ý thức hệ vô sản, mà trước hết là cản trở
sự truyền bá, tiếp thu, vận dụng, phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh của đội ngũ trí thức trong thực tiễn.
Những quan niệm, quan điểm dựa trên thế giới quan, phương pháp luận duy
tâm, siêu hình trong hệ tư tưởng phong kiến đối lập với thế giới quan, phương
pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự đối lập này sẽ làm
cho những nguyên lý, lý luận Mác-xít sẽ gặp phải các rào cản cả về thế giới
quan, phương pháp luận và lợi ích giai cấp của hệ tư tưởng phong kiến trong quá
trình truyền bá, tiếp thu, vận dụng, phát triển trong thời kỳ mới.
Thứ hai, hệ tư tưởng phong kiến và kinh tế tiểu nông đã hạn chế sự phát
triển của tư duy lý luận của đội ngũ trí thức.
Những tư tưởng, quan điểm - sản phẩm của tư duy kinh nghiệm, đặc biệt là
bệnh kinh nghiệm của hệ tư tưởng phong kiến là lực cản trực tiếp đối với quá
trình phát triển từ tư duy kinh nghiệm vươn lên tư duy lý luận khoa học của đội
ngũ trí thức. Đặc biệt, khi bệnh giáo điều, kinh nghiệm được ngụy biện bởi lý
luận khoa học thì sự cản phá của nó đối với tư duy lý luận không chỉ là cản trở
quá trình biện chứng nhận thức chân lý mà nó còn xuyên tạc, bóp méo sự thật gây
ra những hoài nghi về tính chân thực, cách mạng của thế giới quan, phương pháp
luận duy vật biện chứng. Theo đó, hệ quả tất yếu mà nó gây ra chính là cản trở
sự năng động, sáng tạo của đội ngũ trí thức trong việc vận dụng, phát triển lý
luận khoa học vào đời sống thực tiễn.
Thứ ba, hệ tư tưởng phong kiến, tiểu nông đã hạn chế phong cách làm việc
khoa học của đội ngũ trí thức.
Dưới chế độ thực dân và phong kiến “những người lao động trí óc,
những người trí thức chân chính bị bọn thống trị biến thành những người làm
thuê cho chúng, “sớm vác ô đi, tối vác về”[4];
hoặc thấy mình là “lớp tiên tri, tiên giác” mà trở nên “kiêu ngạo, lên mặt”[5]...
Điều này sẽ ảnh hưởng đến phong cách làm việc dân chủ, cởi mở, tận tâm, tận lực
trong nghiên cứu, tìm tòi chân lý và sáng tạo ra cái mới chứa đựng các giá trị
khoa học phục vụ cho phát triển của chính người trí thức và cho sự phát triển
xã hội. Sự hạn chế trong phong cách làm việc sẽ dẫn đến sự khiếm khuyết trong
nhân sinh quan, nhân cách của người trí thức chân chính, cách mạng, tiến bộ.
Thứ tư, hệ tư tưởng phong kiến, tiểu nông tạo kẽ hở để kẻ thù kích động,
lợi dụng chống lại chính mục đích nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, văn minh, phát
triển của khoa học.
Lối sống “sinh hoạt phong
lưu, nhưng tinh thần thì bị mờ mịt”6,
”cầu an, hưởng lạc” của trí thức dưới thời thực dân và phong kiến còn rơi
rớt lại ngày nay sẽ là môi trường thuận lợi để các cám dỗ của lối sống tư sản
phương Tây, mặt trái của cơ chế thị trường sẽ xâm nhập, mua chuộc, dụ dỗ, lôi
kéo... đội ngũ trí thức cuốn vào vòng xoáy của những ham muốn hưởng lạc trái
với thuần phong mỹ tục và văn hoá dân tộc. Nếu không nhận thức và giải quyết
được một cách khoa học về quan hệ lợi ích, thì chắc chắn những trí thức này sẽ
bị ham muốn tiền bạc, quyền lực... sai khiến mà bất chấp chân lý khoa học và
đạo lý làm người lương thiện, từ đó có những suy nghĩ và hành động đi ngược lại
với những mục đích, bản chất tốt đẹp của khoa học, đi ngược lại mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc
ta trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Để khắc phục những tác động tiêu cực của hệ tư tưởng tưởng phong kiến,
tiểu nông ở đội ngũ trí thức hiện nay cần tập trung vào “cải tạo tư tưởng,
sửa đổi lề lối làm việc; đào tạo trí thức mới, cải tạo tri thức cũ; công nông
trí thức hóa; trí thức công nông hóa”7.
Theo đó cần phải tập trung vào mấy vấn đề sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và phát triển môi trường sống và làm việc thật
sự mang tính văn hoá cao và khoa học trong đội ngũ trí thức.
Có rất nhiêu tiêu chí đánh giá môi trường sống và làm việc thật sự có
văn hoá cao và khoa học, trong đó, tính dân chủ là yếu tố quan trọng hàng
đầu, phản ánh đậm nét tính văn hoá và khoa học của môi trường sống, làm
việc của đội ngũ trí thức cách mạng. Môi trường sống và làm việc nếu phát huy
được dân chủ sẽ “làm cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái
không đúng thì giải thích, sửa chữa”[6].
Sự công khai, thẳng thắn, trung thực trong các quan hệ ứng xử sẽ góp phần hạn
chế, đẩy lùi tệ chuyên quyền, độc đoán, kiêu ngạo, chủ quan, ích kỷ, hẹp hòi,
coi thường người khác... trong bản thân mỗi trí thức.
Trong môi trường văn hoá sẽ thúc đẩy quá trình
tự “hoá văn” trong mỗi người trí thức. Chân giá trị chân - thiện - mỹ được hình
thành, phát triển trong quá trình “hoá văn” sẽ làm cho thói ích kỷ,
vụ lợi, kiêu ngạo, độc đoán... sẽ ngày càng thấy mình xa lạ, kệch cỡm trước xu
thế phát triển tiến lên của thực tiễn đời sống.
Dân chủ và kỷ cương dưới CNXH về bản chất là có sự thống nhất với nhau,
gắn bó chặt chẽ không thể tách rời. Vì vậy, để có và bảo đảm quyền dân chủ thì
bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế bảo đảm dân chủ như: “ban
hành qui chế dân chủ trong hoạt động khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo,
văn hóa và văn nghệ...”[7], hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền dân chủ trong các
hoạt động cho đội ngũ trí thức.... thì việc xử lý nghiêm khắc và dân chủ
các biểu hiện mất dân chủ trong hoạt động của trí thức có vai trò hết sức quan
trọng trong việc bảo đảm môi trường dân chủ thực sự cho hoạt động của đội ngũ
trí thức.
Hai là, phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ trí thức.
Phát triển tư duy lý luận cho đội ngũ trí thức hiện nay, bên cạnh những
thuận lợi cũng có nhiều thách thức. Những biến đổi nhanh chóng của thực tiễn
hàng ngày, hàng giờ đang đặt ra cả về phương diện lý luận và thực tiễn mà chưa
có lời giải thật sự khoa học đủ sức thuyết phục mọi người. Theo đó, nếu không
có tư duy lý luận khoa học vững chắc sẽ rất dễ dao động, thiếu niềm tin vào
những nguyên lý lý luận đã được đúc kết và sự đơm hoa kết trái tất yếu trong
công cuộc tìm kiếm chân lý khoa học. Sự dao động này dễ xuất hiện những biểu
hiện muốn tìm “thần”, “Chúa”, “Trời”, “cái hích của Thượng đế”... trong nhận
thức và hành động của trí thức, đặc biệt là trong những luận giải về mối quan
hệ giữa đời sống tâm linh và thực tiễn cuộc sống thường nhật.
Để phát triển tư duy lý luận khoa học
của đội ngũ trí thức hiện nay, bên cạnh việc trang bị hệ thống, toàn diện,
sâu sắc kiến thức khoa học chuyên ngành thì việc tiếp tục trang bị thế giới
quan, phương pháp luận duy vật biện chứng làmcơ sở lý luận, kim chỉ nam cho
mọi hoạt động của đội ngũ trí thức hiện nay có vai trò hết sức quan trọng. Sự
vững vàng trên lập trường của thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện
chứng và lý luận khoa học chuyên ngành không chỉ là sơ sở quan trọng để xua tan
những hoài nghi, dao động thiếu luận cứ khoa học, những ý tưởng muốn “ tìm thần”,
“ tạo thần”, những lập luận máy móc, giáo điều trong khoa học, mà còn là cơ sở
để củng cố lòng tin vào các lý luận khoa học đã được đúc rút, giải đáp những
hoài nghi khoa học trên cơ sở thực tiễn đời sống...
Ba là, nâng cao chất lượng phản biện khoa học trong các kết quả nghiên
cứu và hoạt động của đội ngũ trí thức.
Phản biện khoa học không phải là vấn đề mới mẻ
trong khoa học và trong hoạt động của đội ngũ trí thức. Những năm qua đã có rất
nhiều những phản biện khoa học trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã
đạt được cả về “ tâm”, “ tầm”. Những kết quả đó đã góp phần “lật tẩy” được
nhiều những kết quả nghiên cứu mang tính áp đặt, giáo điều, máy móc, hời hợt,
cẩu thả, xa lạ với đời sống thực tiễn. Song, vẫn còn không ít những phản
biện khoa học không chỉ thiếu cái “tâm”, thấp về “tầm” mà còn bị lệch “trục”
chủ đạo. Điều này không chỉ làm cho các kết quả nghiên cứu khoa học và hoạt
động của đội ngũ trí thức không những không xác định được giá trị thực của
nó mà còn là mảnh đất tốt cho tệ quan liêu, kiêu ngạo, lười biếng, tùy tiện, vô
trách nhiệm... tồn tại trong đội ngũ trí thức.
Nhiều ý kiến cho rằng, nguyên nhân của những điểm mạnh, điểm yếu trong
các phản biện khoa học có rất nhiều, song, nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là ở
cái “tâm” của người trí thức. Vì vậy, để nâng cao chất lượng phản biện khoa
học hiện nay, một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải tạo và giữ được
cái “tâm” của đội ngũ trí thức luôn trong sáng. Để có được cái “tâm” sáng
thì đội ngũ trí thức phải không ngừng được giáo dục, được tiếp cận và chọn
lựa các giá trị của cuộc sống, đặc biệt là các giá trị của lao động trí óc. Khi
trí thức tự giác nhận thức được và hành động theo chân giá trị của lao động trí
óc thì đó cũng là lúc cái “tâm” được tỏa sáng trong mọi nhận thức và hành động.
Có được cái “tâm” sáng đã khó, việc gìn giữ được cái “tâm” luôn
sáng lại khó hơn gấp nhiều lần. Trong thực tế người ta có thể viện ra hàng trăm
ngàn lý do để biện minh cho sự vẩn đục của lương tâm. Nhưng điều không thể
phủ nhận được là việc nhận thức và lý giải các quan hệ lợi ích là cái sâu xa
nhất, trực tiếp nhất quyết định tới sự giữ gìn cái “tâm” sáng.
Để kết luận quan điểm của mình, Ph.Ăng-ghen đã dẫn nhận xét của
Moóc-gan: “...lợi ích của xã hội phải tuyệt đối cao hơn lợi ích cá nhân và
cần phải tạo ra những mối quan hệ công bằng và hài hoà giữa hai lợi ích đó”[8].
Khi quan hệ lợi ích bị nhận thức và giải quyết sai lệch thì tự khắc những lập
luận phản biện trở nên vô hồn, gượng gạo, dần tự đánh mất vai trò phản biện của
mình. Nhận thức và giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích thì những lập luận phản
biện khoa học sẽ thấm đượm cả lý và tình, toát lên cái “hồn” sáng trong, không
vụ lợi, không định kiến, không mặc cảm, sẽ làm cho thói ích kỷ, kiêu ngạo, vụ
lợi, bon chen... thấy nhỏ bé trước cái “ tâm” sáng trong của những lập luận
phản biện... Với cái liêm, sỉ của kẻ sĩ sẽ làm cho thói ích kỷ, kiêu
ngạo, vụ lợi, bon chen... phải tự tìm lời răn và tự bốc thuốc chữa bệnh cho
chính sự tồn tại của mình.
Bốn là, xây dựng tác phong làm việc khoa học cho đội ngũ trí thức.
Tác phong làm việc khoa học phản ánh thế giới
quan, nhân sinh quan tiến bộ, khoa học của đội ngũ trí thức. Có rất nhiều tiêu
chí đánh giá tác phong làm việc khoa học của đội ngũ trí thức, trong đó chất
lượng, hiệu quả công việc là một trong những tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác
phong làm việc khoa học của đội ngũ trí thức. Tác phong làm
việc “sớm vác ô đi, tối vác về”, quan liêu, gia trưởng, đặc biệt là sự vô cảm
đang tồn tại trong rất nhiều trí thức, nhất là ở những trí thức có chức quyền
trong khu vực hành chính sự nghiệp của Nhà nước. Nguyên nhân của tình trạng
trên có rất nhiều, trong đó không thể không kể đến nguyên nhân nhu cầu công
việc và sự mô phạm ngay trong đội ngũ trí thức.
Để khắc phục tác phong, lề lối làm việc trên đây, trước hết phải quan
tâm, giải quyết nhu cầu được làm việc, được lao động, được cống hiến một cách
phù hợp của trí thức đối với đất nước. Có việc làm và việc làm phù hợp với bản
thân trí thức sẽ là động thúc đẩy sự say mê nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo không
kể thời gian và năm tháng, không kể khó khăn, trở ngại... Sự mô phạm về tác
phong, lề lối làm việc của cấp trên với cấp dưới là một tấm gương trực tiếp và
hiệu quả nhất đối với tác phong, lề lối làm việc của cấp dưới. Sự chấp hành tự
giác kỷ cương, quy định của cơ quan, tổ chức của cấp dưới như là một hiệu ứng ngược
tác động mạnh mẽ đến sự mô phạm của cấp trên. Sự mô phạm hài hòa trên - dưới
tạo nên môi trường văn hóa mà ở đó những tệ vô cảm, hách dịch, cầu an, hưởng
lạc, tự ti, mặc cảm, được chăng hay chớ... sẽ trở nên lạc lõng và cùng với thời
gian nhất định nó sẽ bị lịch sử bỏ qua.
Năm là, tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, bồi dưỡng
nhằm xây dựng đội ngũ trí thức thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có tư duy sáng tạo và năng lực làm chủ
tri thức khoa học và công nghệ hiện đại.
Đội ngũ trí thức là vốn quý của Đảng, của dân
tộc ta. Vì vậy, cần phải chăm lo bồi dưỡng, nuôi dưỡng hoài bão khoa học, có ý
chí, tình cảm, năng lực sáng tạo, tính tự chủ, tự tin, tự trọng, độc lập, thực
sự là lực lượng nòng cốt đi đầu trong xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ cuả
đất nước. Do đó, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần quán triệt sâu sắc các quan
điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức. Làm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng
và mỗi cá nhân từng trí thức nhận thức đúng vai trò trách nhiệm của đội ngũ trí
thức trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cần
phải có chiến lược phát hiện, nuôi dưỡng, đào tạo và trọng dụng nhân tài. Theo
đó, trong thời gian tới cần phải có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ khoa học và công nghệ trẻ có tài năng, cán bộ khoa học công nghệ và các
chuyên gia đầu ngành của đất nước.
Sáu là, bổ sung hoàn thiện chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần
đối với lao động trí thức.
Chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần hợp
lý, xứng đáng với lao động trí óc của trí thức sẽ tạo động lực để trí thức hăng
hái cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nếu các
chính sách đãi ngộ về vật chất và tinh thần không thoả đáng, lao động của trí
thức không được coi trọng thì không những không tạo ra động lực làm việc mà còn
dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”. Đảng ta xác định: “... Rà soát các
chính sách hiện có và ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức
được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả
lao động sáng tạo của mình”[9]. Đương nhiên việc đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần không đồng
nghĩa với việc ưu tiên, ưu đãi, đòi hỏi thái quá mà ở sự đánh giá đúng giá trị
của sản phẩm lao động trí óc do trí thức tạo ra cho xã hội. Vấn đề đặt ra hiện
nay là bổ sung đổi mới chính sách khen thưởng đối với trí thức, tôn vinh những
người có tâm huyết, tài năng, có các chế độ quy định bảo vệ quyền tác giả và
quyền sở hữu trí tuệ của trí thức, đồng thời tạo ra những điều kiện thuận lợi
để trí thức hướng hoạt động sáng tạo của mình vào mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của hệ tư tưởng phong kiến ở đội ngũ
trí thức nước ta hiện nay vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật để góp phần xây
dựng đội ngũ trí thức vững mạnh. Phải coi đây là một hướng ưu tiên, một yếu tố
đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế tri thức, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, H. 2008, tr.32.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb
CTQG, H. 2002, tr.203.
[3] Hồ
Chí Minh, Sđd., tập 6, tr.542.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 6, tr. 542.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr.235.
[6] Hồ Chí Minh, Sđd., tập 5, tr. 224.
[7]
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Sđd, tr.35.
[8] C. Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, H.1995,
tr.265.
[9]
Đảng Cộng sản Việt Nam,
Sđd, tr.94.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét