Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

TÔN TRUNG SƠN VÀ HỒ CHÍ MINH VỚI MỤC TIÊU “ĐỘC LẬP-TỰ DO-HẠNH PHÚC”

“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là khái niệm mà Hồ Chí Minh kế thừa của Tôn Trung Sơn để áp dụng vào cách mạng Việt Nam, nhưng thực chất khái niệm ấy của hai lãnh tụ này có nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích, so sánh, đánh giá quan điểm của Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, để thấy được những mặt tiến bộ, tích cực và hạn chế trong quan điểm của Tôn Trung Sơn và giá trị đích thực của mục tiêu “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã, đang và sẽ tiếp tục phấn đấu thực hiện.
Tôn Trung Sơn - Tôn Dật Tiên (1866-1925) - nhà dân chủ cách mạng, người sáng lập Chủ nghĩa tam dân (Chủ nghĩa dân tộc, Chủ nghĩa dân quyền, Chủ nghĩa dân sinh), người cha của cách mạng Trung Quốc. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn đến các nhà yêu nước của Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó tiêu biểu là Hồ Chí Minh với nội dung được hết sức quan tâm là ba nguyên tắc: “Dân tộc độc lập; Dân quyền tự do; Dân sinh hạnh phúc”[1](1) và chính sách “thân Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”. Đây là những tư tưởng tiến bộ, tích cực và có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam.
Sự gặp gỡ giữa tư tưởng của Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh, trước hết là ở việc lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu của cách mạng. Tôn Trung Sơn coi Chủ nghĩa  dân tộc là Chủ nghĩa quốc tộc (quốc gia), đây là cái làm cho mọi người hiểu được nguy cơ của dân tộc mình và cùng nhau đoàn kết lại để thực hiện mục tiêu chung của dân tộc-mục tiêu cứu nước. Chủ nghĩa dân tộc được củng cố thì chủ nghĩa thế giới mới có thể phát triển được nhưng ông lại cho rằng: “Chủ nghĩa Marx không phải là chủ nghĩa cộng sản đích thực, cái mà Proudon, Bacunin chủ trương mới là chủ nghĩa cộng sản đích thực”[2]. Thực chất tư tưởng của Proudon (1809-1865) và Bacunin (1814-1876) là đứng trên quan điểm của giai cấp tiểu tư sản, hy vọng vào việc cải tạo xã hội tư bản theo mô hình lý tưởng phù hợp với đạo đức và tình cảm của người tiểu tư sản ngay trên cơ sở tồn tại của xã hội tư bản. Họ kiên quyết phủ nhận chủ nghĩa Mác, bác bỏ chuyên chính vô sản và vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu các giai cấp bóc lột. Đây là chủ nghĩa cải lương, vô chính phủ.
Như vậy, Tôn Trung Sơn đã không hiểu Chủ nghĩa Mác, không thấy được quy luật, động lực của sự vận động và phát triển của lịch sử, ông phê phán chủ nghĩa cộng sản khoa học, ca ngợi xã hội được xây dựng trên tinh thần tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, ông lấy cái mà lịch sử đã chứng minh tính hạn chế và đào thải để coi đó là cái đích thực. Ngoài ra, ông coi sự tăng giảm dân số là cơ sở của sự vận động, phát triển lịch sử chứ không phải là do phương thức sản xuất, và khi phác thảo về mục tiêu đấu tranh để giải phóng dân tộc thì ông có tư tưởng bá chủ, khi cho rằng: “An Nam và Miến Điện vốn là lãnh thổ của Trung Quốc”. Đồng thời, Tôn Trung Sơn không lựa chọn con đường cách mạng vô sản để cứu nước mà chỉ dừng lại ở cuộc cách mạng dân chủ tư sản-tức là khi cách mạng thành công thì chủ trương xây dựng nhà nước dân chủ tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo-phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thực chất lợi ích dân tộc mà ông theo đuổi chẳng qua chỉ là lợi ích của giai cấp tư sản.
Đối với Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”[3]. Đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế và khi chủ nghĩa dân tộc thắng lợi thì nhất định nó sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng ở đây là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế. Người viết: “Khi chủ nghĩa dân tộc... thắng lợi,..., nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[4], là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh đã tìm ra cho dân tộc con đường cứu nước giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và cuối cùng là giải phóng nhân loại bị áp bức, giải phóng các dân tộc thuộc địa. Điều này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và toàn nhân loại. Như vậy, “chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn khng phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người”[5].
Trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp mà đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, “là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” tức là hai giai đoạn cách mạng: dân tộc (tư sản dân quyền) dân chủ (thổ địa) và chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn thấp là xã hội chủ nghĩa”[6]. Tức là, cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước, bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Điều này cho thấy, độc lập, thống nhất là nhiệm vụ trước mắt, hàng đầu; từng bước thực hành dân chủ. Hoàn thành tất cả các nhiệm vụ đó cũng có nghĩa là xây dựng điều kiện để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Điều này thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và lợi ích toàn nhân loại.
Tôn Trung Sơn, căn cứ vào sự thông minh tài sức của nhân dân để phân biệt 3 loại người: Biết trước, giác ngộ trước trước; biết sau, giác ngộ sau và không biết, không giác ngộ. Biết trước, giác ngộ trước trước là những người tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp trí thức. Biết sau, giác ngộ sau là những nhà tuyên truyền. Không biết, không giác ngộ đây là quảng đại quần chúng công nông. Điều này cho thấy, ông không thấy được vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, mà lại quá đề cao vai trò của những nhà lý luận, nhà khoa học, nhà cách mạng.
Khác với Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh coi “Dân” là tất cả những người lao động trong xã hội, không phân biệt già-trẻ, trai-gái, dân tộc, tôn giáo, giàu-nghèo... Trong đó công nông là đông nhất, bị áp bức nặng nề nhất và là người gan góc nhất, do đó, “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”[7]. Tức là, công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt, là đội quân chủ lực của cách mạng. “Dân” không bao hàm bọn phản quốc, bọn tay sai “bán nước hại dân”, những kẻ đi ngược lại với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Do đó, Người luôn có niềm tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của nhân dân, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân với ý nghĩa “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào”[8]. Lợi ích dân tộc là tiêu chí để phân biệt lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng.
Chủ nghĩa Dân quyền chủ trương dân quyền bình đẳng, phổ biến, mọi cá nhân và đoàn thể chống đế quốc đều được hưởng quyền tự do, dân chủ. Theo Tôn Trung Sơn, dân quyền là sức mạnh chính trị của nhân dân, nhân dân quản lý chính trị, tức là có quyền: tuyển cử, bãi miễn, sáng chế, phúc quyết. Chính phủ có quyền: lập pháp, tư pháp, hành pháp, giám sát và khảo thí. Muốn thực hiện được vấn đề “dân quyền” thì cần phải có một chính phủ có đủ năng lực, có quyền định đoạt, không hạn chế hành động của họ, mọi việc do họ tự do xử lý, có thế quốc gia mới tiến bộ, tiến bộ mới nhanh. Tức là, những người tham gia chính phủ phải là những người hữu năng-trị quyền.
Đồng thời, Tôn Trung Sơn bàn đến vấn đề bình đẳng trong xã hội và cho rằng: “Nói đến địa vị bình đẳng trong xã hội là nói địa vị khởi điểm ban đầu bình đẳng, sau đó mỗi người nhờ vào thông minh tài lực bẩm sinh rồi tự mình rèn luyện, vì thông minh tài lực bẩm sinh khác nhau nên kết quả đương nhiên khác nhau, thành tựu tài cán khác nhau, do đó đương nhiên không thể bình đẳng. Như thế mới là đạo lý của bình đẳng thật”[9]. Do đó, nếu thực hiện bình đẳng một cách đồng loạt thì xã hội sẽ suy thoái và đi vào khủng hoảng. Vì thế nói dân quyền bình đẳng, thế giới phải tiến bộ với ý nghĩa là nhân dân phải có địa vị bình đẳng về chính trị. Chỗ đứng của bình đẳng tự do là dân quyền, phụ thuộc vào dân quyền. Dân quyền phát triển rồi thì bình đẳng tự do mới có thể tồn tại lâu dài, nếu không có dân quyền thì không giữ được bất luận bình đẳng tự do gì.
Cùng với quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm kiếm một thể chế chính trị không theo hướng của các cuộc cách mạng ở Pháp, Mỹ, cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc vì đó là những nhà nước dựa trên nền tảng của chế độ dân chủ tư sản. Mà đối với cách mạng Việt Nam, chúng ta đã hy sinh làm cách mạng, thì phải làm cho đến nơi, nghĩa là khi cách mạng thành công thì giao quyền cho dân chúng số nhiều, không để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc.
Pháp luật phải dựa trên nền đạo đức, đạo đức là gốc của pháp luật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật có vai trò là công cụ quản lý của nhà nước và công cụ của từng cá nhân để bảo vệ, bảo đảm tự do, công bằng, dân chủ, bình đẳng nam nữ và bình đẳng xã hội. Điều này thể hiện tính nhân văn, tư tưởng tiến bộ, khoa học, khắc phục sự nhận thức tuyệt đối hoá vai trò giai cấp của pháp luật, thể hiện sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội to lớn của pháp luật. Tư tưởng pháp luật của Người được trình bày trong một chỉnh thể thống nhất với các vấn đề dân chủ, tự do, kinh tế, văn hóa. Đây cũng chính là đời sống thực của pháp luật, pháp luật đi lên từ đời sống xã hội và quay trở về phục vụ đời sống xã hội. Đồng thời, còn chứa đựng những vấn đề triết lý về bản chất, vai trò, mối quan hệ giữa pháp luật và các quy tắc xã hội khác mà trực tiếp nhất là đạo đức. Tức là, pháp luật XHCN phải dựa trên nền đạo đức - đạo đức cách mạng thì mới thuyết phục được đa số nhân dân tự giác thực hiện và ủng hộ.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý xã hội, Người đã chỉ ra rằng: “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”[10]. “Trăm điều” là một đại lượng có tính tuyệt đối, nhưng rất cụ thể, được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập đến một cái chung, bao quát. Còn “thần linh pháp quyền” là chỉ một điều rất thiêng liêng và mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi lúc của các cơ quan, nhân viên nhà nước, của mọi công dân và các tổ chức xã hội phải thể hiện được “thần linh pháp quyền”. ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy nhà nước, mọi cơ quan nhà nước, môi trường pháp chế bao trùm đời sống xã hội. Vì thế, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ nhanh chóng thực hiện việc tổ chức tổng tuyển cử và ban hành “một hiến pháp dân chủ”[11] với mục đích là bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ sở công nông liên minh và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng. Hiến pháp dân chủ đó không những là cơ sở pháp lý để xây dựng một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mà còn là nền tảng để ban hành các đạo luật cụ thể nhằm thực hiện và bảo đảm bằng pháp luật các quyền dân chủ của nhân dân.
Sự thống trị của pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội của một đất nước là đặc điểm cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền. Đó là nhà nước tự đặt mình dưới luật, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật, tuân thủ các đạo luật do mình thông qua. Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tầm quan trọng tối thượng của một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng phải là pháp luật dân chủ, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động, là cơ sở pháp lý để xây dựng nhà nước phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thể hiện vai trò xác định mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước với công dân... có như vậy nó mới trở thành một phương tiện để xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền.
Tôn Trung Sơn coi Chủ nghĩa dân sinh là “chủ nghĩa xã hội, còn gọi là chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa đại đồng”[12]. Bởi vì, xét đến cùng, mục đích của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là giải quyết vấn đề dân sinh. Đây là điểm tương đồng giữa Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh trong việc hướng tới một xã hội mà các nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại... của nhân dân được đáp ứng. Song trong cách thức giải quyết vấn đề này lại có nhiều điểm khác nhau, nhất là trong cương lĩnh ruộng đất.
Vấn đề ruộng đất được Tôn Trung Sơn coi là cái gốc của tất cả các vấn đề xã hội. Nếu ruộng đất được phân chia đồng đều thì sự phân biệt giàu nghèo sẽ không quá găy gắt. Ngược lại, nếu có sự bất bình đẳng, nó sẽ tạo nên những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Do đó, ông chủ trương thực hiện bình quân địa quyền, tức là tiến hành công hữu quyền ruộng đất, nhằm xoá bỏ sự lũng đoạn điền thổ của giai cấp thống trị phong kiến, khiến cho quyền ruộng đất trong cả nước đều được sử dụng một cách công bằng, hợp lý đem lại lợi ích chung cho mọi người và nó được thực hiện thông qua việc trao quyền định giá đất đai cho chủ đất, quy định về giá đất... tiến tới người cày có ruộng. Đối với vấn đề tiết chế tư bản, Tôn Trung Sơn đề ra hai chính sách: tiết chế tư bản tư nhân và phát triển tư bản nhà nước để chế độ tư bản tư nhân không thể thao túng được quốc kế dân sinh, ngăn chặn sự phân biệt giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội do sự chênh lệch giàu nghèo giữa tư bản tư nhân và người lao động. Giải quyết vấn đề này phải dùng phương pháp hoà bình với 4 biện pháp: Cải cách xã hội và công nghiệp; công hữu hoá ngành giao thông; đánh thuế trực thu tức là thuế thu nhập; xã hội hoá phân phối, tức là hợp tác xã.
Cùng với đó là đẩy mạnh phát triển tư bản nhà nước với hy vọng sẽ tạo ra được sức mạnh đối kháng chống lại sự áp chế về kinh tế của thế lực đế quốc để chấn hưng công nghiệp, phát triển thực nghiệp quốc gia, khai thác nguồn tài nguyên giàu có, tạo nên tư bản nhà nước trên cơ sở phát triển giao thông, đường sắt, đường sông với quy mô lớn; thực hiện khai khoáng; sản xuất công nghiệp. Đồng thời, lấy những doanh nghiệp nhà nước để hạn chế phạm vi phát triển và lũng đoạn của tư bản tư nhân nhằm tạo nên sự công bằng về quyền lợi vật chất cho mọi người trong xã hội, cũng như tạo nên sức mạnh nội tại của quốc gia để chống lại những áp lực về kinh tế từ bên ngoài, mang lại một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Trung Quốc.
Việc “mơ tưởng” rằng ở Trung Quốc có thể “ngăn ngừa” được chủ nghĩa tư bản, rằng ở đó “cuộc cách mạng xã hội” sẽ dễ dàng hơn vì đó là nước lạc hậu,... thực chất là một “mơ tưởng” hoàn toàn phản động vì “cuộc cách mạng kinh tế” đó đưa đến sự chuyển giao địa tô cho nhà nước, thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất thông qua một thứ thuế thống nhất. Sự chênh lệch giữa giá trị ruộng đất ở vùng nông thôn hẻo lánh và ở đô thị lớn là sự chênh lệch về số lượng địa tô. Giá trị ruộng đất là địa tô được tư bản hóa. Biến “sự tăng thêm giá trị” của ruộng đất thành “tài sản nhân dân” thì có nghĩa là chuyển giao địa tô, tức là sở hữu ruộng đất, vào tay nhà nước, hay nói một cách khác là quốc hữu hóa ruộng đất. Một cuộc cải cách như thế trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản là sự tiêu biểu cho chủ nghĩa tư bản thuần túy nhất, triệt để nhất, hoàn chỉnh, lý tưởng nhất và nếu thực hiện đầy đủ cương lĩnh ruộng đất ấy thì sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp phát triển hết sức nhanh chóng.
Vấn đề “Cương lĩnh ruộng đất” ở Hồ Chí Minh được xác định một cách cụ thể, rõ ràng và triệt để hơn nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Với chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, tiến hành tịch thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp. Thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” là một phần rất quan trọng trong nhiệm vụ cách mạng dân chủ, để xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, giải phóng sức sản xuất, xác lập vai trò làm chủ của người nông dân ở nông thôn, cho nên việc thực hiện người cày có ruộng là góp phần thực hiện tích cực nhiệm vụ chống đế quốc. 
Sự khác nhau nữa giữa hai lãnh tụ này còn là ở phương pháp: Tôn Trung Sơn không coi đấu tranh giai cấp là một động lực của sự phát triển xã hội mà coi vấn đề dân sinh mới chính là động lực gốc của lịch sử, bởi nó góp phần giải quyết những vấn đề về đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng, cho nên “phải đưa trung tâm của chính trị, xã hội, kinh tế trong lịch sử quy về vấn đề dân sinh, lấy dân sinh làm trung tâm của lịch sử xã hội”[13], thực chất đây là việc cố tình che dấu mâu thuẫn giai cấp. Do đó, ông không đồng ý với việc dùng chuyên chính công nông, tức là dùng phương pháp cách mạng để giải quyết vấn đề kinh tế, nếu dùng phương pháp cách mạng chỉ có thể giải quyết được vấn đề chính trị, chứ không thể giải quyết được vấn đề kinh tế và nếu dùng biện pháp cách mạng để giải quyết vấn đề kinh tế chắc chắn sẽ không thể có được những thành công, nếu không muốn nói là thất bại.
Đối với Hồ Chí Minh, việc cứu nước và giải phóng dân tộc phải bằng con đường cách mạng vô sản. Chủ nghĩa dân tộc, đấu tranh giai cấp, đoàn kết toàn dân là động lực của sự phát triển xã hội. Việc giành chính quyền về tay nhân dân mới chỉ là bước đầu mà nhiệm vụ chính là xây dựng đất nước, là ra sức thi đua sản xuất để: Toàn dân đủ ăn đủ mặc; toàn dân biết đọc, biết viết; toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới, để diệt ngoại xâm; toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn. Thế là chúng ta thực hiện: Dân tộc độc lập. Dân quyền tự do. Dân sinh hạnh phúc. Muốn vậy, phải phát triển kinh tế, văn hoá, các đạo luật về tự do dân chủ,... đó là những vấn đề rất quan trọng về quốc kế dân sinh, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Độc lập, tự do, hoà bình, là điều kiện để xây dựng, tổ chức tốt đời sống cho nhân dân. Không thể đem lại cho con người hạnh phúc thực sự nếu như không thủ tiêu được chế độ người bóc lột người. Do đó, độc lập dân tộc phải thực sự, hoàn toàn, gắn với thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; xoá bỏ vĩnh viễn ách áp bức, bóc lột. Tức là, độc lập dân tộc phải gắn liền và kết hợp hữu cơ với chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tìm thấy và kế thừa ở Tôn Trung Sơn nhiều tư tưởng tiến bộ phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta, nhưng đây là một sự tiếp biến đặc biệt, sự tiếp biến vượt gộp để tạo ra một giá trị tư tưởng độc đáo, mới mẻ, cách mạng. Nghĩa là, không dừng lại ở những chủ trương của Quốc dân Đảng mà Hồ Chí Minh đã phát triển khái niệm “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” lên một trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân, tính dân tộc và tính cách mạng sâu sắc, triệt để của một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng./.


[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb CTQG, Hà Nội, 1969, tr.62.
[2] Tôn Trung Sơn, Chủ nghĩa tam dân, Nxb Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.122.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.466. 
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., t.1, tr.467.
[5] Võ Nguyên Giáp (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr.91.
[6] PGS. TS Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2008, tr.193.
[7] Hồ Chí Minh, Sđd., t.2, tr.266.
[8] Hồ Chí Minh, Sđd., t.10, tr.197.
[9] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.212.
[10] Hồ Chí Minh, Sđd., t.1, tr.438.
[11] Hồ Chí Minh, Sđd., t.4, tr.8.
[12] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.313.
[13] Tôn Trung Sơn, Sđd., tr.344.

RÈN LUYỆN PHONG CÁCH HỌC TẬP HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN


Tóm tắt: Trong toàn bộ di sản vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại, phong cách của Người nói chung và phong cách học tập nói riêng là một bộ phận hết sức quan trọng. Nghiên cứu ngày càng sâu về phong cách học tập Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm vĩ đại của Người với tư cách là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn lỗi lạc và là tấm gương sáng ngời đã để lại những bài học quý giá trở thành chuẩn mực cho việc xây dựng và rèn luyện phong cách học tập của người cán bộ cách mạng, bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Không chỉ là người nêu lên lý luận, tư tưởng về phong cách học tập mà bản thân Người còn là một tấm gương tiêu biểu về thực hành phong cách học tập đúng đắn. Nghiên cứu hệ thống di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng, chúng ta có thể khẳng định: Phong cách học tập Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản của phong cách Hồ Chí Minh, là sự thống nhất hữu cơ giữa những quan điểm, tư tưởng toàn diện, sâu sắc với tấm gương tiêu biểu, mẫu mực của Người về học tập, được thể hiện ở động cơ học tập trong sáng, thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo theo phương châm “lấy tự học làm cốt”.
Phong cách học tập Hồ Chí Minh là một cống hiến quan trọng, là đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận dạy - học của nước ta; trở thành một triết lý học tập; một giá trị nhân sinh cao đẹp, tiêu biểu cho trí tuệ, tâm hồn và phong cách Việt Nam - phong cách đó rất gần gũi, dung dị mà sâu sắc; uyên bác mà dễ hiểu, dễ tiếp thu và chuyển hóa, có thể học tập và làm theo. Phong cách học tập Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động của phương Đông, đồng thời được soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nên rất đa dạng, phong phú, sinh động nhưng sâu sắc. Phong cách học tập đó không những tạo cơ sở khoa học mà còn là tấm gương mẫu mực và thiết thực cho mọi người học tập và tự học tập suốt đời để vươn lên không ngừng. Phong cách đó không chỉ là lý luận mà còn là cách thức và phương pháp soi đường và chỉ dẫn cho chúng ta học tập và noi theo.
Nét đặc trưng trong phong cách học tập Hồ Chí Minh mang tính độc đáo, đó là phong cách học tập hàm chứa những yếu tố rất giản dị, đại chúng với động cơ, mục đích cao cả, trong sáng mà thiết thực; với thái độ cầu thị, khiêm tốn nhưng lại đòi hỏi rất cao và hết sức nghiêm túc; với phương pháp học tập khoa học mà dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng, lứa tuổi... Cụ thể là:
Một là, động cơ học tập trong sáng vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì sự tiến bộ của nhân loại.
Quan tâm, chăm lo tới sự nghiệp giáo dục của nước nhà, Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người thi đua học tập, coi học tập là nhiệm vụ thường xuyên, suốt đời, “còn sống thì còn phải học”[1]. Và trong việc học tập Người đặc biệt chú trọng đến động cơ, thái độ học tập: “Muốn học tập có kết quả thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng”[2]. Tức là, trước hết phải có động cơ học tập đúng để xác định rõ và đúng xu hướng nghề nghiệp chân chính của mình là vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người và vì sự tiến bộ của chính bản thân mình. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc học tập là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại ”[3].
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào người học cũng phải nỗ lực, cố gắng và phải xây dựng cho mình một động cơ học tập đúng đắn; đồng thời không cho phép tồn tại những tư tưởng cơ hội, vụ lợi, thực dụng, ích kỷ cá nhân, hay những biểu hiện lười học tập, ngại rèn luyện, hoặc là dùng mọi thủ đoạn nhằm đạt kết quả cao trong học tập. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin vào đoàn thể, vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách mạng, học để hành”[4]; “học để làm việc”; chứ không phải học để “làm ông nọ bà kia”, hay là để “làm quan cách mạng”… cho nên, “tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch”[5]. 
            Động cơ chính là động lực bên trong của mỗi con người, sự thể hiện nó được biểu hiện qua hành vi, thái độ và việc làm của con người đó. Do vậy, chỉ khi nào xác định được động cơ học tập đúng đắn thì mỗi chúng ta mới có thái độ và phương pháp học tập đúng đắn và khoa học.
Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của việc học tập đối với người cán bộ cách mạng. Trong nhiều lần nói chuyện với giới trí thức, Bác thường nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc học tập: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời”[6]. Trên cơ sở nắm bắt được xu thế của thời đại và khả năng dự báo được tương lai, Người đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có hạn. Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập”[7] và “nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được ... không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”[8]. Người thường dẫn câu nói của Lênin “Học, học nữa, học mãi” để nhắc nhở bản thân, để giáo dục cán bộ, đảng viên và mọi người.
Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu gương mẫu mực về động cơ học tập trong sáng. Người học tập với một động cơ hết mực trong sáng và với một ý nguyện thật cao cả; việc học tập đó không chỉ dừng lại ở sự mở rộng vốn hiểu biết, nâng cao trình độ tri thức và tiến bộ của bản thân, đó cũng hoàn toàn không phải vì bằng cấp nọ, học vấn kia… mà quan trọng hơn là để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, làm cho đất nước độc lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[9]. Động cơ và mục đích này luôn luôn trở thành động lực thường xuyên và trực tiếp thôi thúc Bác một cách mạnh mẽ trong việc học tập, tiếp thu tri thức nhân loại.
Hai là, thái độ học tập đúng đắn, khiêm tốn, say mê, cầu thị, chân thành, không kiêu ngạo, không dấu dốt. 
            Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các bài nói bài viết của mình luôn nhắc nhở chúng ta rằng: “Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi”[10] và “người nào tự cho là đã biết đủ rồi, thì người đó dốt nhất”[11], mỗi người phải biết khiêm tốn, chớ “kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”[12]. Đức tính khiêm tốn yêu cầu, đòi hỏi con người ta không được thỏa mãn với vốn kiến thức của mình và cũng không được phép bằng lòng với những thành tích đã đạt được. Chúng ta còn nhớ, khi đánh giá về vai trò của tầng lớp trí thức nước nhà, với thái độ khách quan, đúng mực. Người đã nói: “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì cách mạng khó khăn thêm nhiều. Nhưng có nhiều người trí thức vì thế mà kiêu ngạo, lên mặt. Chứng kiêu ngạo và lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến bộ... Vì vậy, những người tri thức đó cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình. Phải khiêm tốn, chớ kiêu ngạo”[13]. Chính bản thân Hồ Chí Minh cũng đã nêu gương mẫu mực về thái độ khiêm tốn, say mê và cầu thị, không dấu dốt trong học tập.
Những mẩu chuyện về thời trẻ của Người cho biết, trong học tập những gì chưa hiểu, chưa rõ Người đều hỏi thầy giáo một cách rất cặn kẽ. Nếu thầy trả lời chưa rõ, Người tiếp tục hỏi nữa, hỏi cho đến lúc nào thấu đáo mới thôi. Người bảo: hỏi thầy giáo về cái mình chưa hiểu hoặc không hiểu như thế là cần thiết. Thế mới gọi là “học hỏi”. Không chỉ hỏi để hiểu đối với những điều sách vở nói sai với thực tế, không hợp lôgic, mà Người cũng luôn mạnh dạn đặt ra những vấn đề với thầy giáo, chứ không tiếp nhận tri thức một cách máy móc, xuôi chiều. Mặt khác, ở Hồ Chí Minh, mặc dù biết rộng hiểu sâu nhưng khi tiếp xúc, trao đổi với bạn bè, đồng chí về vấn đề gì, bao giờ Người cũng nói: “Theo tôi nhớ thì thế này...”, hoặc “Có lẽ ý của chỗ này là thế này...”, đối với mỗi người thì “cái gì biết, thì nói biết, không biết thì nói không biết”. Và tuyệt nhiên không được lấy việc xem nhiều sách để mà “lòe” người khác, “để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận”[14].    
Chính Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần học tập suốt đời. Cho đến những năm cuối đời mình, Người vẫn chú trọng, không sao nhãng việc học tập. Tháng 5-1966, trong một buổi nói chuyện với các đồng chí đảng viên mới ở Hà Nội, Người đã nói: “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”[15].
Ba là, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả theo phương châm “lấy tự học làm cốt”.
Việc xác định đúng động cơ và thái độ trong học tập là nội dung hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng để hiện thực hóa động cơ, thái độ đó; đòi hỏi tất yếu khách quan là phải xây dựng được phương pháp học tập khoa học. Vì vậy, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và thông qua quá trình đó, Người đã hình thành cho mình một phương pháp học tập khoa học, đó là con đường tự học, với phương châm “lấy tự học làm cốt[16] và phải biết “tự động học tập”. Theo Hồ Chí Minh, tự học được xem như một quy luật của sự tồn tại, sự tự khẳng định và phát triển cá nhân; là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của mỗi người. Người chỉ rõ: tự học, tự rèn, tự tu dưỡng cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Bởi vì, theo Người: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có”[17].
Trong tự học phải xác định đúng nội dung tự học, “học cái gì”? Theo Hồ Chí Minh, nội dung tự học rất rộng lớn, bao gồm: học tập lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, đạo đức… trong đó, Người luôn coi trọng việc học tập lý luận; bởi lẽ “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Người luôn đặt ra yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”[18]. Mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất nhân cách và đạo đức cách mạng.
         Muốn tự học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học. Kế hoạch học tập đó không phải là một sự tự do, tùy ý mà được xây dựng một cách chủ động, trên cơ sở căn cứ vào tình hình công việc, khả năng, thời gian và điều kiện phù hợp. Trong điều kiện thời gian không cho phép thì phải nắm cho được những vấn đề cơ bản, “phải thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Đặc biệt, theo Người, phải tự nguyện, tự giác; tích cực, chủ động và kiên trì, bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng, phải xem công việc học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập; nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.
Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để học. Người vạch ra: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”[19]; “Học tập trong việc làm hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ”[20]. Học tập trong kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, “học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[21]. Học đi đôi với hành cùng một lúc sẽ hình thành ở người học cả tri thức lẫn kỹ năng; do đó, “hành” trở thành một hình thức chính của “học”, quá trình “học” xảy ra trong chính quá trình “hành”. Trong buổi nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Ngày 20/10/1964), Người đã khuyên: Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau.
Mặt khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu gương mẫu mực về phương pháp học tập - tự học.
Người sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở xứ Nghệ. Lúc còn nhỏ, tuy không được đào tạo, học hành qua một trường lớp chính quy nào, nhưng được sự giáo dục của gia đình và bằng con đường tự học mà Người đã thông kinh sử nước nhà, hiểu biết rất cặn kẽ lịch sử thế giới, nắm chắc Đông, Tây, kim cổ, am hiểu sâu sắc các học thuyết Nho giáo, Phật giáo cũng như các trường phái triết học phương Tây; thông thạo nhiều ngoại ngữ; đặc biệt là thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin… trên cơ sở đó Người xác định và lựa chọn con đường cứu nước duy nhất đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Tại Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (1935), mọi người đã hết sức kinh ngạc và khâm phục khi đọc bản khai lý lịch của Người với bí danh là Lin, đó là: khi trả lời câu hỏi về trình độ học vấn - Người ghi: “Tự học”; tiếp theo mục: Đồng chí biết ngoại ngữ gì? Trả lời: Anh, Pháp, Ý, Nga, Trung Quốc, Đức… Để có được thành quả đó không thể nào khác ngoài con đường tự học tập, với một tinh thần cầu thị và ý chí kiên trì, bền bỉ và sáng tạo. Trong suốt cuộc hành trình bôn ba, gian khổ từ Châu Á sang Châu Âu, Châu Phi và Mỹ La Tinh là tất cả quỹ thời gian Người dành cho việc tự học tập, tự rèn luyện bản thân, với ý thức “việc nên không cần ai nhắc, việc không nên không cần ai ngăn”. Có lẽ, tự học, tự rèn đã trở thành triết lý sống và hành động của Hồ Chí Minh từ đó.        
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ lúc thanh niên cho đến khi trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, thành người chiến sĩ xuất sắc của phong trào cộng sản quốc tế là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ về mọi mặt của bản thân. Sự thành công của Người trong việc tiếp thu chân lý vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin và trong việc sáng tạo sách lược đấu tranh cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến cũng chính là kết quả của một quá trình tự học kiên trì, gian khổ trong cuộc đấu tranh cách mạng liên tục, kiên cường. Người đã tổng kết những kinh nghiệm quý báu về quá trình học tập - tự học suốt cả đời mình và đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá. Tuy nhiên, tự học ở Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tuỳ ý, vô nguyên tắc… trái lại, việc tự học của Người đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai; tinh thần sáng tạo; tranh thủ mọi lúc mọi nơi, mọi phương tiện và hình thức để học; học đến đâu ra sức luyện tập, trau dồi đến đó.
Để học tập và rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh là một việc làm rất cần thiết ttrong điều kiện hiện nay, tuy nhiên đó là việc khó khăn, đòi hỏi chúng ta cần phải thực hiện có hiệu quả các biện pháp cơ bản sau: 
Trước hết, thực hiện tốt việc giáo dục, rèn luyện động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh.
Việc giáo dục, rèn luyện động cơ học tập cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh có thể được tiến hành theo những nội dung và cách thức khác nhau, trong đó cần tập trung vào một số nội dung sau: phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng sư phạm của nhà trường trong giáo dục, rèn luyện động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên; đề cao ý thức tự giác rèn luyện động cơ, mục đích học tập đúng đắn của mỗi sinh viên; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục với động viên tư tưởng, quan tâm động lực tinh thần.
Hai là, bồi dưỡng thái độ học tập tích cực, say mê, nghiêm túc, khiêm tốn, cầu thị; rèn luyện nghị lực học tập bền bỉ, nỗ lực khắc phục khó khăn, gian khổ cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh
Để làm được điều này, cần phải hướng đến tổ chức và thực hiện tốt việc bồi dưỡng cho sinh viên sự say mê, nghiêm túc, cầu thị trong học tập, nghiên cứu; rèn luyện cho tinh thần học tập tự tin, chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu;  rèn luyện nghị lực học tập cao và ý thức vượt mọi khó khăn, trở ngại trong học tập, nghiên cứu cho sinh viên.
Ba là, rèn luyện kỹ năng, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh
Tập trung rèn luyện kỹ năng nghe giảng và ghi chép, rèn luyện kỹ năng tự học. Cần đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng “lấy tự học của người học làm cốt...” nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản, toàn diện cả về phương pháp dạy của giảng viên, phương pháp học của sinh viên, phát huy tối đa tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của từng người và tập thể lớp học; qua đó bồi dưỡng năng lực tự học, tự đào tạo, năng lực thực hành nghề nghiệp. Phải chuyển từ lối “truyền thụ một chiều” sang “dạy cách học”; chuyển từ cách học thụ động sang cách học chủ động; rèn luyện kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề.
Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập theo tấm gương Hồ Chí Minh
Đây là biện pháp giữ vai trò quyết định trực tiếp chất lượng, hiệu quả của hoạt động rèn luyện này. Trong đó, trước hết, sinh viên phải có ý thức tự bồi dưỡng phong cách học tập đúng đắn cho bản thân và cần xây dựng kế hoạch, nội dung tự rèn luyện thật sự thiết thực và khoa học. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo và kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp cụ thể để nâng cao chất lượng tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh. Xây dựng môi trường văn hóa sư phạm mẫu mực nhằm tích cực hóa hoạt động tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập của sinh viên.
KẾT LUẬN
Học tập và rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa thiết thực và bổ ích; là động lực trực tiếp và là cơ sở khoa học để góp phần xây dựng, phát triển và hoàn thiện động cơ, mục đích và thái độ học tập đúng đắn; phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả. Thông qua đó góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường; xây dựng và hoàn thiện mô hình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; đồng thời, góp phần thực hiện có chất lượng, hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay.




[1] Hồ Chí Minh, Về vấn đề học tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 84 – 85.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.94.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.684.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.50.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd., t.8, tr.497.
[6] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.33.
[7] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.34.
[8] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.68.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd., t.4, tr.161-162.
[10] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.38.
[11] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.22.
[12] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.58.
[13] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.11-12.
[14] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.11.
[15] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.84-85.
[16] Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr.67.
[17] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.235.
[18] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.235.
[19] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.52.
[20] Những lời Bác dạy, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1975, tr.43.
[21] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.50.