Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

VẤN ĐỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

TÓM TẮT
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là ba vấn đề lớn mà Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, nó có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ba lĩnh vực này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nông dân được coi là “chủ thể” của quá trình phát triển, phát triển kinh tế là phát triển nông nghiệp, còn phát triển xã hội là phát triển nông thôn. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng, còn phát triển xã hội gắn liền với nâng cao phúc lợi của nông dân. Để giải quyết được vấn đề này trong điều kiện hiện nay, đòi hỏi cần tập trung thực hiện tốt việc: tiếp tục đổi mới nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn; tập trung phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới; xây dựng đội ngũ chuyên gia và huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia giải quyết vấn đề này.

1. VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
Với khoảng 70% dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những vấn đề liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nền kinh tế Việt Nam hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan. Đặc biệt, giai đoạn 2006-2010, tốc độ GDP nông nghiệp bình quân đạt 3,36%, vượt mục tiêu 3,2%/năm của Đại hội Đảng lần thứ X đề ra; các lĩnh vực sản xuất: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản có bước phát triển khá. Cơ cấu kinh tế nông thôn có bước chuyển biến tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn như thuỷ lợi, giao thông nông thôn, hạ tầng thương mại nông thôn về cơ bản đã được chú trọng đầu tư… Cả nước đã đào tạo cho 345.140 lao động nông thôn, tỷ lệ làm việc sau học nghề đạt khoảng 70%... Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông nghiệp không chỉ đã góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội ở nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm qua. Chính vì vậy, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
2. MỘT SỐ MỤC TIÊU VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 2011-2015
Trong những năm tới, Đảng ta chủ trương định hướng phát triển nông-lâm-ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn và mục tiêu tổng quát được đề ra trong giai đoạn 2011-2015 là không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, đảm bảo sự hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; xây dựng nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững; từng bước xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội hiện đại;… Từ mục tiêu tổng quát, một số mục tiêu cụ thể đến năm 2015 cũng được xác định, cụ thể là: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015: 7,0-7,5%/năm. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD; cơ cấu GDP: nông nghiệp 17-18%” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 190), “Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6-3%/năm. Tỷ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40-41% lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8-2 lần so với năm 2010” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 198). Đồng thời, “Ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông-lâm-thủy sản, sản phẩm xuất khẩu; sản xuất phân bón, thức ăn cho chăn nuôi và thuốc bảo vệ động, thực vật...” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 193-194).
3. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN
Thực tế hiện nay cho thấy, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức, cần sớm được tháo gỡ, và chỉ khi nào tháo gỡ được các vấn đề này mới tạo điều kiện và bảo đảm để chúng ta hướng đến thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển của đất nước nói chung cũng như vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn nói riêng, cụ thể:
Nguồn lực sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn suy giảm và đến lúc tới hạn, đặc biệt nguồn lực đất đai (diện tích giảm và chất lượng đất kém) cộng với nguồn nước cung cấp cho nông nghiệp không ổn định do hiện tượng biến đổi khí hậu. Trong khi nguồn lực đất đai đã chuyển cho công nghiệp hoá, thì nguồn lực lao động (đáng chú ý là chất lượng lao động) lại chưa gắn kịp theo hướng đó. Để thu hút các nguồn vốn, phát triển công nghiệp phục vụ yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hằng năm, gần 10 vạn hécta đất nông nghiệp đã được thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, đường giao thông. Khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có 80% thuộc loại đất màu mỡ cho hai vụ lúa/năm. Điều đáng nói là, sự dễ dãi và yếu kém trong quy hoạch cùng tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt đã dẫn tới tình trạng sử dụng đất tùy tiện, lãng phí. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch vụ... đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch, vùng nông thôn trù phú. Hệ quả là, hàng chục vạn hécta đất "bờ xôi ruộng mật" đã bị sử dụng phí phạm, tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của hàng chục vạn hộ gia đình nông thôn và hàng triệu lao động nông nghiệp.
Chi phí đầu vào của nông nghiệp ngày càng tăng so với giá đầu ra khiến giá trị thu nhập của nông dân ngày càng giảm sút. Lợi thế cạnh tranh trong nông nghiệp giảm, nhu cầu thị trường ngày càng tăng cao về chất lượng hàng nông sản, nên nông nghiệp bản thân đã yếu (với chất lượng hàng nông sản thấp) lại càng trở nên kém lợi thế trong bối cảnh mới. Trong khi đó, cam kết quốc tế lại hạn chế khả năng bảo hộ thị trường hàng nông sản. Thị trường hàng nông sản giá rẻ với chất lượng thấp trước đây sẽ không có cơ hội mở mang. Nếu mô hình tăng trưởng trong 10 năm tới lấy mục tiêu phát triển con người là trung tâm và chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao (trí tuệ, tiềm năng công nghệ lớn) thì có lẽ thách thức lớn của nông nghiệp, nông thôn nước ta sắp tới là sức ép về việc làm đối với lực lượng lao động nông thôn sẽ ngày một lớn do chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp cộng với một bộ phận nông dân không có khả năng thích nghi với điều kiện sản xuất mới sẽ bị “đào thải”. Do đó, nhu cầu lao động phổ thông và giản đơn giảm dần. Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó khu vực thành thị là 4,43% và khu vực nông thôn là 2,27%. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm 2010...
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay, “trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của lao động nông thôn còn thấp so với mặt bằng chung. Cụ thể, lao động có trình độ trung học phổ thông chỉ chiếm 13,7%, tốt nghiệp trung học cơ sở 34,6%, tiểu học 20%. Ước tính, hiện có đến 83% lực lượng lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có hơn 2% có bằng cao đẳng hoặc đại học, với khoảng 700.000 người; 3% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp; 3% có chứng chỉ sơ cấp hoặc tập huấn nghề ngắn hạn. Điều đáng quan tâm là có tới 8,7%, với gần 2.900.000 người được gọi là công nhân kỹ thuật nhưng chưa được cấp bất kỳ loại văn bằng hoặc chứng chỉ nghề nghiệp nào” (Báo Hà Nội mới, 2010). Trong khi đó, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trong suốt thời kỳ dài chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức. Các cơ sở dạy nghề tập trung nhiều ở đô thị lớn, còn ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa có rất ít. Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đào tạo nghề cho lao động nông thôn là một trong những tiêu chí quan trọng được đặt lên hàng đầu. Công tác đào tạo nghề mở ra cơ hội làm chuyển biến, chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn, cung cấp nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng trở nên cấp thiết.
Nông nghiệp, nông thôn là địa bàn đang phải hứng chịu những hậu quả về môi trường. Việc sử dụng không hợp lý, lãng phí quĩ đất canh tác; tình trạng san lấp, lấn chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình thủy lợi; nạn đốt phá rừng, khai thác khoáng sản tuỳ tiện cùng với sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải, bụi, khói, tiếng ồn… đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh quan nông thôn, đời sống và sức khỏe của nông dân, giảm thiểu khả năng đề kháng, thậm chí làm trầm trọng thêm những tai biến của tự nhiên. Chẳng hạn: Hàng năm, nước ta sử dụng trung bình 15.000 - 25.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật, mỗi năm hoạt động nông nghiệp phát sinh khoảng 9.000 tấn chất thải nông nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo vệ thực vật, trong đó không ít loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng. 100% làng nghề đã xuất hiện đầy đủ các dạng ô nhiễm môi trường như: Vật lý, hóa học, sinh học. Đặc tính chung của nước thải, rác thải làng nghề là giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ sinh học (Diễn đàn các Nhà báo Môi trường Việt Nam, 2009).
Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn lớn nhất của nông dân là khắc phục nhược điểm của chính bản thận họ, của chính nền kinh tế tiểu nông. Bên cạnh đó, với sức ép của thị trường trong nước đặc biệt là thị trường quốc tế khi thực hiện cam kết hội nhập, một bộ phận nông dân quen với sản xuất nhỏ lẻ manh mún, không có kiến thức hoặc không chịu trau dồi kiến thức để thích hợp với nông nghiệp công nghệ cao sẽ bị “đào thải”. Cùng với đó, nó sẽ đặt nông dân nhỏ ở Việt Nam vào một cuộc cạnh tranh không cân sức với các hệ thống sản xuất nông nghiệp hiện đại, quy mô lớn được tổ chức chặt chẽ và trợ cấp dồi dào cũng như bảo hộ nông nghiệp ở mức độ cao (ở những nước phát triển) trong bối cảnh toàn cầu hoá. Ngoài ra, nông dân bị thu hồi đất còn phải đối mặt với vấn đề công ăn, việc làm, tình trạng giá cả sinh hoạt leo thang, hoạn nạn khi ốm đau bệnh tật, gánh nặng viện phí, học phí… đều là những câu chuyện nan giải triền miên.
4. GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN VÀ NÔNG THÔN
Xuất phát từ những khó khăn, thách thức đang đặt ra cũng như yêu cầu của quá trình phát triển đất nước, theo chúng tôi, để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong điều kiện hiện nay, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức về vai trò của nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Đổi mới nhận thức của Nhà nước, các ngành, các cấp về vai trò của nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu lao động xã hội theo hướng CNH, HĐH. Theo đó, phát triển nông nghiệp toàn diện và vững chắc gắn với công nghiệp chế biến và thị trường xuất khẩu nông sản là yêu cầu và điều kiện tiên quyết để thực hiện CNH, HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân. Muốn vậy, cần đổi mới quan điểm, nhận thức về vai trò và vị trí của mặt trận nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH phải gắn phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành này. Từ đổi mới nhận thức phải tạo sự đột phá về tổ chức và quản lý cùng với hoàn thiện cơ chế chính sách, cơ sở pháp lý trong nông nghiệp theo hướng kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước theo quy hoạch và kế hoạch với cơ chế chính sách phù hợp. Trong cơ chế chính sách cần tập trung vào vấn đề bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hoá và hội nhập kinh tế. Phát triển nông thôn toàn diện cả về cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội và chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái. Cần khẩn trương nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện các chính sách đối với giai cấp nông dân và lao động nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thu hẹp khoảng cách về thu nhập, đời sống giữa nông thôn và thành thị một cách cơ bản, lâu dài. Giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo và xu hướng tái nghèo ở nông thôn.
Hai là, mục tiêu, giải pháp phát triển nông nghiệp
Đảng ta nhận thức về mục tiêu phát triển nông nghiệp trong điều kiện sự biến đổi về môi trường sống trên hành tinh đang diễn ra hết sức phức tạp, đe dọa sự sống của hàng tỷ người, nhất là đối với các nước nghèo. Trong điều kiện như vậy, phải phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải chú ý đến tất cả các mặt, các bộ phận của nông nghiệp (theo nghĩa hẹp nông nghiệp bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản). Hiện nay, cần chú ý phát triển nông nghiệp chuyên sâu, chuyên môn hoá các khâu của sản xuất nông nghiệp, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ trong trồng trọt, chăn nuôi, từ đó nâng cao hiệu quả của nông nghiệp. Tính hiệu quả trong nông nghiệp còn là sự phát triển bền vững, nghĩa là sự phát triển của nông nghiệp gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức. Sự phát triển nông nghiệp toàn diện bền vững là bền vững về sinh thái; lợi ích về kinh tế; lợi ích xã hội đối với nông dân và cộng đồng.
Về cơ cấu trong nông nghiệp, Đảng ta xác định phát triển nền nông nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa góp phần nâng cao hiệu quả của nông nghiệp nhiệt đới. Một nền nông nghiệp hiện đại đòi hỏi phải thực hiện một loạt các giải pháp, trong đó phải khắc phục tình trạng manh mún đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại (nhất là công nghệ sinh học); bố trí lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi; phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hóa, khu nông nghiệp công nghệ cao, các tổ hợp sản xuất lớn. Đặc biệt, để phát huy những lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới, để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, hiện đại đòi hỏi phải thực hiện tốt liên minh công-nông, trong đó có vai trò nòng cốt của Nhà nước và đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, cũng như các tổ chức chính trị-xã hội. Đại hội XI khẳng định phải thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn. Phát triển các hiệp hội nông dân và các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tạo điều kiện để các tổ chức này hoạt động thiết thực, có hiệu quả.
Ba là, đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp, thủy sản
Phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó chú trọng cả rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng; tăng diện tích trồng rừng và độ che phủ rừng trên cơ sở khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân có thể sống, làm giàu từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; hình thành các tổ hợp trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản và phát triển các vùng rừng chuyên môn hóa bảo đảm đáp ứng ngày càng nhiều hơn nguyên liệu trong nước cho công nghiệp chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ, giấy. Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp, thâm canh là chủ yếu đối với thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hoá các cơ sở chế biến thuỷ sản. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản.
Bốn là, xây dựng nông thôn mới
Một trong những nội dung được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là vấn đề xây dựng nông thôn mới. Mặc dù đã có nhiều văn kiện, nghị quyết chỉ đạo và đã được chính phủ cụ thể hóa trong bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh các nội dung của việc xây dựng nông thôn mới. Theo đó, xây dựng nông thôn mới phải có các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, phù hợp với đặc điểm từng vùng, phải kết hợp chặt chẽ việc xây dựng nông thôn mới với việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Xây dựng nông thôn mới phải chú trọng tới xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hạ tầng về giao thông, thủy lợi… đi liền với đó là đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ, công nghiệp chế biến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm để nâng cao đời sống của cư dân nông thôn; trồng, chăn nuôi các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, có sức cạnh tranh và lợi thế trên thị trường… tạo môi trường thuận lợi cho thu hút và khai thác các đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, tạo cơ hội việc làm cho nông dân, theo mục tiêu đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm.
Triển khai mạnh mẽ cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới”; đồng thời, đẩy mạnh việc thực hiện Phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”. Xây dựng nông thôn mới còn phải chú ý tới thực hiện chế độ chính sách, bảo đảm công bằng cho người nghèo và có phương án dự phòng thiên tai cho người dân. Cần thường xuyên quan tâm tới giáo dục, đào tạo ở vùng nông thôn, đây là vấn đề cốt lõi để tạo nguồn nhân lực thực hiện Chương trình. Vì vậy, các cấp, ngành, địa phương cần đặc biệt lưu ý đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ, dân trí cho người dân nông thôn, trong đó cần hết sức lưu ý tới công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn với các hình thức đào tạo phong phú, đa dạng. Song song với đào tạo phổ thông, đại học cần đa dạng hóa hơn nữa việc đào tạo nghề để tạo tiền đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thoát nghèo. Bên cạnh đó, ở mỗi địa phương, cũng cần tăng cường, củng cố công tác xây dựng, phát triển hệ thống chính trị cơ sở để giữ vững an ninh nông thôn, đảm bảo cho phát triển kinh tế-xã hội. Ngoài ra, “Phát triển hài hoà giữa thành thị và nông thôn. Phát triển đô thị phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, theo quy hoạch dài hạn, không khép kín theo ranh giới hành chính và xử lý đúng mối quan hệ giữa đô thị hoá và hiện đại hoá nông thôn. Đẩy mạnh việc đưa công nghiệp và dịch vụ về nông thôn để hạn chế tình trạng nông dân ra các thành phố, đồng thời không để một khu vực lãnh thổ rộng lớn nào trống vắng đô thị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr. 203-204).
Năm là, xây dựng đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt và huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Để làm chuyển biến khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vấn đề tiên quyết là phải có chủ trương chính sách đúng. Tuy nhiên, sau khi có chủ trương chính sách đúng, nhân tố quyết định lại là con người. Do đó cần đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức được đội ngũ cán bộ và các chuyên gia-những người, những bộ phận, những lực lượng có trọng trách chính trong việc phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Bộ phận nòng cốt này bao gồm các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học, đội ngũ cán bộ khuyến nông… làm công tác chỉ đạo ở Trung ương và trực tiếp làm việc ở nông thôn, và trong lĩnh vực nông nghiệp (bao gồm cả đội ngũ cán bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước ở Trung ương và các địa phương). Trách nhiệm được đề cập ở đây được hiểu là những việc làm thiết thực và có hiệu quả chứ không phải là một phạm trù đạo đức. Sau đội ngũ cán bộ, phải tạo bước chuyển biến mới trong đào tạo nghề cho người nông dân. Bản chất của vấn đề đang được bàn luận ở đây là ở chỗ đất nước vừa phải đào tạo được đội ngũ những “chuyên gia” giỏi về chuyên môn thực sự để giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vừa phải toàn dụng lực lượng lao động ở nông thôn. Tiếp đến là phải phát động cho được trách nhiệm của toàn xã hội, toàn xã hội phải tham gia giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Nông nghiệp phải được coi là nền tảng để ổn định phát triển kinh tế-xã hội. Muốn vậy, chính sách đối với nông dân phải được coi là trung tâm trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Biểu hiện của nhận thức đó phải được thể hiện bằng các biện pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, thu hẹp về khoảng cách và tốc độ phát triển giữa khu vực nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nông dân không phải chỉ là trách nhiệm, việc làm riêng của Đảng, Chính phủ hay của giai cấp nông dân, mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Tập trung nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, mọi cấp mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mọi thể nhân và pháp nhân; nỗ lực của tất cả các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, quy mô ngành nghề kinh doanh, nếu có liên quan đến ngành nông nghiệp, người nông dân và khu vực nông thôn thì đều phải có trách nhiệm chung tay với Nhà nước, chung sức với người nông dân để giải quyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Hà Nội mới. Dạy nghề cho lao động nông thôn - Thay đổi cung cách phù hợp vùng miền. http//hanoimoi.com.vn, ngày 9/12/2010.
2. Diễn đàn các Nhà báo Môi trường Việt Nam. Ô nhiễm môi trường ở nông thôn đang báo động. http//www.vfei.vn/vn, ngày 14/9/2009.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.




Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

THỰC HIỆN ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Đoàn kết tôn giáo là một trong những cơ sở nền tảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là bộ phận hữu cơ bảo đảm cho cách mạng giành được thắng lợi dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn vô cùng quý báu, là cơ sở, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, Nhà nước ta trong nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo, cụ thể trên các nội dung cơ bản sau:  
 Một là, đoàn kết tôn giáo trên cơ sở lợi ích chung của dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân
Để bảo đảm sự đoàn kết giữa các lực lượng được bền chặt, thống nhất phải dựa trên cơ sở lợi ích, đó là sự kết hợp, giải quyết hài hòa giữa lợi ích dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động, trong đó có bộ phận quan trọng là đồng bào giáo dân. Lợi ích đó là: Đất nước phải có độc lập, nhân dân phải được sống trong tự do, có đời sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng được học hành, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân. Trong cuộc tổng Tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh khẳng định: “tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”[1], và khi đất nước bị xâm lăng thì “bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc... Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[2]. Trong xã hội dân chủ, nhân dân có quyền lợi và nghĩa vụ trong thực hành dân chủ, Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 do Người trực tiếp chỉ đạo xây dựng đã chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân”[3]... Những quyền đó phải đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân theo hiến pháp, pháp luật.
Hai là, thực hiện đoàn kết rộng mở
Hồ Chí Minh luôn chú trọng đoàn kết với đồng bào Công giáo là Việt kiều ở nước ngoài. Trong buổi nói chuyện với bà con Việt kiều, trong đó có đồng bào Công giáo nhân chuyến đi thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh đã nói rằng: phái đoàn sang đây mang đến cho đồng bào một món quà, không phải bánh trái, không phải tiền bạc mà là tinh thần dân tộc “Đoàn kết trên hết, Tổ quốc trên hết”. Đoàn kết những người cộng sản với những người theo tôn giáo. Khi trả lời cho câu hỏi người Công giáo có thể vào Đảng Lao động được không? Hồ Chí Minh đã trả lời: “Có. Người Công giáo nào cũng được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật của Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được”[4]. 
Ba là, tôn trọng niềm tin, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân-đó là quyền thiêng liêng, căn bản của mỗi người không ai được xâm phạm hoặc làm tổn hại. Quyền tự do ấy đã được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tức là, “mọi người có quyền tự do tin đạo hay không tin, không ái được cưỡng bách và khinh rẻ họ… Ngày nay chính sách của Đảng Cộng sản là bảo hộ tôn giáo và ngày sau cũng vậy”[5]. Mọi sự áp đặt, o ép và cưỡng ép đều là trái với quyền tự do tín ngưỡng và có nghĩa là vi phạm hiến pháp và pháp luật hiện hành của nước ta. Tại chương II, mục B, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (năm 1946), đã ghi rõ: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Nếu ai làm sai Hiến pháp, khiêu khích công giáo sẽ bị phạt. Ngày 14/6/1955, Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo, trong đó khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, quyền theo hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào”, “tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo” và “khi truyền bá tôn giáo”, các tổ chức tôn giáo được sử dụng sách báo tôn giáo, được phép mở trường tư thục theo chương trình giáo dục của Chính phủ. 
 Bốn là, Đảng, Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống của giáo dân
Để tập hợp và đoàn kết tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến lợi ích thiết thực của giáo dân, cả phần đời và phần đạo, cả phần xác và phần hồn, bởi “phần xác có no ấm thì phần hồn mới thong dong”, cho nên nước độc lập mà dân không được ấm no, hạnh phúc thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Do đó, đồng bào và chiến sĩ cả nước phải quan tâm, chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn giáo; Chính phủ cần có chính sách cụ thể để cải thiện cuộc sống cho đồng bào, động viên, khuyến khích mọi người tích cực tăng gia sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần; đồng bào lương, giáo phải đoàn kết cùng nhau lao động, sản xuất chăm lo xây dựng cuộc sống mới, hăng hái tham gia mọi công việc xây dựng Tổ quốc; tôn trọng niềm tin của đồng bào có đạo, bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa tôn giáo, các sinh hoạt tôn giáo.
Năm là, phát huy những yếu tố tương đồng
Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương phát huy những yếu tố tương đồng, khắc phục những dị biệt, kiên quyết tránh xúc phạm đến đức tin của đồng bào có tôn giáo. Điểm tương đồng ở đây, trước hết, giữa các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hy vọng giải thoát con người, mong muốn con người được sung sướng tự do, hạnh phúc. Người khẳng định: “Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”, “Đức Giê su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc”...; trong chế độ cũ, phần lớn các tín đồ tôn giáo đều là những người lao động bị áp bức bóc lột; ở họ đều có tinh thần yêu nước thực sự,... chính vì thế, họ là lực lượng của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các tôn giáo mà Người còn tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội, chính là tinh thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”; là xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, bởi vì, “Nước không độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã”[6]. Quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo không tách rời với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, cho nên, mọi người dân Việt Nam dù có tín ngưỡng hay không đều phải góp phần mình để giành và giữ nền độc lập nước nhà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tôn trọng những người đã sáng lập ra một số tôn giáo lớn và tranh thủ, cảm hóa các chức sắc cũng như quan tâm đến đồng bào có đạo, động viên họ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc; tôn trọng, gạn đục, khơi trong, giữ gìn và tiếp biến những giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo lớn để làm phong phú, đa dạng nền văn hóa của dân tộc. Cùng với đó, Người luôn chủ trương giúp đỡ các tôn giáo lập ra các tổ chức yêu nước để phát huy nội lực đoàn kết yêu nước của họ. Ngày 15/3/1946, Người ký quyết định thành lập Việt Nam Phật giáo Hội; ngày 06/3/1946, Liên đoàn Công giáo Việt Nam ra đời.
Những việc làm trên của Người đã như một luồng sinh khí mới thổi vào tâm hồn của những tín đồ yêu nước kính Chúa, tôn thờ Đức Phật, khơi dậy lòng nhiệt tình cách mạng, xoá bỏ những rào cản giữa các tôn giáo để cùng cộng sinh, cộng hưởng, cộng đồng trách nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc.
Sáu là, mọi hoạt động của các tổ chức tôn giáo cũng như giáo dân phải trên cơ sở pháp luật
Thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, nhưng không vì thế mà tôn giáo đứng ngoài pháp luật, các tổ chức tôn giáo phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo quy định tại Điều 11, Sắc lệnh số 234/SL về vấn đề tôn giáo đã ghi rõ: Khi phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, những giám mục, linh mục, nhà sư, mục sư, chức sắc có ruộng đất riêng phát canh thu tô như địa chủ, sẽ không quy định thành phần là địa chủ, nhưng phải thi hành đúng chính sách ruộng đất của Chính phủ... Hoạt động tôn giáo không được cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái với chính sách và pháp luật của Nhà nước. Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ là nghĩa vụ công dân, xâm phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác trái pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân định rạch ròi thái độ, cách thức ứng xử theo các mức độ khác nhau, như đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo phản động cấu kết với nhau, đó là cuộc đấu tranh chống kẻ địch; đối với đồng bào tôn giáo làm sai chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ nhân dân; đối với kẻ lừa bịp, lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào chống lại Tổ quốc, cưỡng bức đồng bào phải lìa bỏ quê hương, sa vào một đời sống tối tăm cực khổ về phần xác cũng như phần hồn, Chính phủ sẽ nghiêm trị; đối với những giáo hữu đã nhầm di cư vào Nam, Chính phủ đã ra lệnh cho địa phương giữ gìn cẩn thận ruộng vườn, tài sản của những đồng bào ấy và sẽ giao trả lại cho những người trở về; đối với chính quyền các cấp phạm sai lầm trong công tác dân vận, nhất là công tác tôn giáo, thì phải xử lý nghiêm minh.
Khi giải quyết vấn đề tôn giáo phải trên tinh thần: kiên trì, nhẫn nại, chân tình. Nếu đã hết sức kiên trì mà không đạt kết quả thì phải kiên quyết, nghiêm khắc xử lý kẻ nào vi phạm Hiến pháp và khiêu khích bà con Công giáo, đồng thời, phải tỉnh táo phân biệt rõ bạn, thù để có cách ứng xử phù hợp, phải nắm vững nguyên tắc xử lý vấn đề công tác tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng ta; chủ động vạch trần mọi luận điệu xuyên tạc của bọn đế quốc, tay sai phản động... có như vậy mới giải tỏa hiểu lầm, tăng cường đoàn kết nhân dân.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành TW Đảng; Quốc hội khoá 11 đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (số 21/2004/ PL-UBTVQH 11) quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ ban hành nghị định số 22/2005/ NĐ-CP ngày 01/3/2005 Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 1940/ CT-TTg ngày 31/12/2008 “về nhà, đất liên quan đến tôn giáo” và nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước và các bộ, ban, ngành liên quan, tiếp tục khẳng định rõ “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Các chính sách, pháp luật đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sâu sắc của Đảng, Nhà nước Việt Nam đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm cho quần chúng nhân dân, tín đồ và các chức sắc tôn giáo yên tâm phấn khởi tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời” tin tưởng vào chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lao động sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng các tôn giáo trong lịch sử và vai trò, vị trí của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định:Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[7]. 
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì trong quá trình tổ chức thực hiện nơi này, nơi kia, còn có hiện tượng nhận thức nóng vội, chủ quan làm cho vấn đề trở nên phức tạp. Cùng với đó, thời gian qua vẫn còn xảy ra một số vụ lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối trật tự công cộng, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng; muốn tách khỏi sự quản lý của nhà nước trong các lĩnh vực: Xây dựng, sửa nơi thờ tự, hoạt động lễ hội, quan hệ với các tổ chức, cá nhân, tôn giáo nước ngoài; tranh chấp, khiếu kiện đòi lại nhà, đất và cơ sở thờ tự... Một số hoạt động và hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện trái pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thành lập hội đoàn, dòng tu... không xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đòi phục hồi các giáo hội đã bị Nhà nước giải thể... Một số địa phương, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động chống đối, kích động tín đồ, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, phân bố ở nhiều vùng miền trên phạm vi cả nước với số lượng tín đồ trên 20 triệu người, đây là một lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sẽ góp phần quan trọng trong việc “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Đặc biệt, trong những năm tới, Đảng ta dự báo, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mới, thì “nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp,... các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta...”[9]. Chính vì thế, việc xây dựng và phát huy sức mạnh của đồng bào giáo dân, theo chúng tôi, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc và các giá trị văn hoá tốt đẹp của đất nước; phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị để thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, quan tâm phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở các địa bàn có đông người theo đạo, vùng có đông người dân tộc thiểu số, vùng núi, biên giới và các xã, thôn, bản, ấp, phum, sóc đặc biệt khó khăn; tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng; phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, trong công tác tuyên truyền cần chỉ rõ âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo để có tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các chức sắc tôn giáo, đồng bào theo đạo và các tầng lớp nhân dân nắm và hiểu đúng, đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo; cán bộ làm công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo các cấp cần nắm chắc chính sách, pháp luật về tôn giáo; thực sự gần gũi, nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng tín đồ; tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, vận động đồng bào giáo dân tích cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương; đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại để nhân dân thế giới và người Việt Nam định cư ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam, tình hình tôn giáo ở trong nước.
Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo nhằm đưa ra cách ứng xử phù hợp, để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc góp phần tạo ra sự ổn định chính trị-xã hội, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực hiện vững chắc việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là điều cần thiết hơn bao giờ hết.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.8.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.480.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.593.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.115.
[5] Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên). Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1998, tr.294.
[6] Báo Cứu quốc, ngày 14-01-1946
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tr.48.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.149.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI., sđd, tr.184-185.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA

Tham nhũng là vấn đề mang tính phổ biến, xuất hiện từ khi xã hội có nhà nước. Ngày nay, tham nhũng đang phát triển đến mức độ đặc biệt nguy hiểm, trở thành vấn đề nhức nhối của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, phòng, chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của mọi nhà nước.
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong điều kiện hiện nay, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, Đảng phải có quyết tâm chính trị cao trong cuộc đấu tranh với nạn tham nhũng, lãng phí.
Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội, do vậy, quyết tâm chính trị của Đảng là điều kiện tiên quyết trong cuộc chiến chống tham nhũng. Nói cách khác, tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng là quyết tâm chính trị của Đảng ta nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta.
Quyết tâm chính trị ở đây được hiểu là sự cam kết tuyên chiến với tham nhũng từ cấp cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hoá và công khai hoá để nhân dân giám sát chứ không chỉ dừng lại ở những nghị quyết, những lời nói mang tính hô hào, khẩu hiệu.
Bên cạnh cam kết chính trị ở cấp cao nhất, những nỗ lực chống tham nhũng lâu bền còn bao gồm sự cam kết từ các cơ quan của hệ thống chính trị, đặc biệt là những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong bộ máy đảng và nhà nước ở các cấp. Người đứng đầu các cấp có vị trí trực tiếp quyết định trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Khi người đứng đầu các cấp kiên quyết chống tham nhũng chắc chắn sẽ tập hợp xung quanh mình lực lượng mạnh mẽ chống tham nhũng.
Trước hết, người đứng đầu phải thực sự trong sáng, liêm chính, là tấm gương sáng về đạo đức lối sống, không chấp nhận tham nhũng. Sự trong sáng, liêm chính đó bắt đầu từ bản thân, tới tập thể những người thân xung quanh, gần nhất như: tập thể lãnh đạo, các cộng sự, cấp dưới trực tiếp, cho đến những người trong gia đình phải tạo thành tấm gương tập thể, chiếu vào cộng đồng xung quanh, tạo những vùng sáng liêm chính trong toàn xã hội. Đã đến lúc những cam kết này phải gắn liền với trách nhiệm chính trị của những người đứng đầu. Nếu ai không làm được thì kiên quyết thay bằng người khác.
Việc xây dựng quyết tâm chính trị phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đảm bảo Đảng lãnh đạo trong khuôn khổ luật pháp, không can thiệp vào các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử và kiên quyết xóa bỏ “vùng cấm” trong thực tế. Đảng cần phát huy dân chủ thực sự, nâng cao tính công khai, minh bạch về hoạt động của đội ngũ cán bộ các cấp, công khai địa chỉ, điện thoại, thư điện tử, tăng cường các mối quan hệ trực tiếp giữa người dân và cán bộ, đảng viên. Tăng cường các buổi tiếp dân, trực tiếp đối thoại với dân, không lựa chọn hay hạn chế diện người được tham gia tiếp xúc. Bên cạnh đó, cần thẩm tra lại những vụ thanh tra đã phát hiện tham nhũng nhưng sau đó lại kết luận chỉ xử lý hành chính, đưa ra xét xử công khai tất cả các trường hợp đúng người, đúng tội, không để lọt người, lọt tội, cũng không để oan sai.

Để chống tham nhũng thực sự đi vào chiều sâu, cũng cần mở một cuộc vận động trong quần chúng chống tham nhũng, tạo dư luận lên án buộc cơ quan chức năng phải xử lý mạnh mẽ các hành vi tham nhũng, làm cho những kẻ tham nhũng không tồn tại được và đội ngũ cán bộ, công chức phải nhìn nhận lại trách nhiệm của mình.
Vai trò của quyết tâm chính trị và sức ép dư luận là rất quan trọng, bởi nó sẽ trở thành động lực và tạo ra những ràng buộc thúc đẩy cho những quyết tâm chính trị. Và một khi quyết tâm chính trị được xây dựng sẽ tạo ra sức đề kháng bên trong một cách chủ động và tự giác của đảng cầm quyền và đòi hỏi những người đứng đầu Đảng, Nhà nước phải trở thành người tiên phong nhất, kiên quyết nhất trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ hai, đổi mới có hiệu quả nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước.
Phải khắc phục triệt để tình trạng đảng bao biện làm thay nhà nước, can thiệp quá sâu vào các công việc của nhà nước và cách thực hiện đó là phải sớm thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng về nội dung, phương thức, phạm vi và trách nhiệm của Đảng, phân định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước. Điều này sẽ góp phần làm cho các cơ quan chống tham nhũng có đủ thực quyền.

Để thực hiện dân chủ trong xã hội thì trước hết phải đảm bảo dân chủ trong Đảng. Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải nói và làm đúng đường lối, nghị quyết của Đảng, kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ, chống mọi biểu hiện vi phạm quyền dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân. Vì vậy, muốn phát động quần chúng đẩy lùi tham nhũng thì trước hết phải phát động dân chủ và thực hiện dân chủ trong Đảng và người đảng viên phải thực sự là người tiên phong, gương mẫu trong việc chống tham nhũng.
Tuy nhiên, để dân chủ thực chất, thực sự là công cụ hữu hiệu trong cuộc đấu tranh với tham nhũng thì việc xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, như: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; dân chủ trong bầu cử, dân chủ quá trình ra quyết định, dân chủ trong quản lý, dân chủ trong kiểm tra và dân chủ trong bãi miễn cán bộ, đảng viên mất uy tín, đồng thời triển khai nó trong thực tiễn.

Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là tối thượng, không một cá nhân nào, không một tổ chức nào đứng trên pháp luật và ngoài pháp luật, tất cả đều phải tuân thủ pháp luật; mọi công dân và cơ quan nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật.

Hiện nay, để có cơ sở pháp lý cho đấu tranh với nạn tham nhũng, chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng cũng như tổ chức hệ thống các cơ quan thực hiện. Vấn đề cơ bản hiện nay là khắc phục những rào cản trong quá trình thực thi pháp luật, trước hết là Luật Phòng, chống tham nhũng được thực thi một cách hiệu quả.
Hơn nữa, cần thực hiện đồng bộ hệ thống luật pháp liên quan đến phòng, chống tham nhũng như Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Hình sự, Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán, Quy chế dân chủ ở cơ sở..., khắc phục những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật.
Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng tổng kết thực tiễn, rà soát lại hệ thống các chủ trương, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước về chống tham nhũng, tiêu cực, phát hiện và khắc phục những sơ hở, thiếu đồng bộ trong các văn bản, những yếu kém trong khâu lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành và đề ra những giải pháp khắc phục. Có như vậy chúng ta mới dần loại bỏ được những cơ hội nảy sinh tham nhũng.
Thứ ba, xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Việc xây dựng các thể chế này càng cụ thể và càng chặt chẽ bao nhiêu thì quyền lực càng bị kiểm soát chặt chẽ bấy nhiêu, đặc biệt là trong các lĩnh vực hay xảy ra tham nhũng. Tham nhũng là căn bệnh của nhà nước, thể hiện sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Do vậy, để việc phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, có sự chuyển biến về chất thì các giải pháp đưa ra phải tập trung vào cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, làm cho quyền lực bị giới hạn theo đúng tinh thần của Hiến pháp và pháp luật, khắc phục tình trạng lạm quyền, chuyên quyền trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Có như vậy mới xóa bỏ được gốc rễ của những nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Thứ tư, tăng cường hoạt động giám sát của người dân, các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội dân chủ. Có thể thấy, nạn tham nhũng tỷ lệ nghịch với quá trình thực hiện dân chủ, nơi nào mà quyền làm chủ của nhân dân được phát huy thì ở đó tham nhũng bị hạn chế ở mức thấp nhất và ngược lại.

Nhưng dân chủ ở đây phải là dân chủ thực chất, nghĩa là người dân có quyền lực thực sự trong việc chủ động tham gia các công việc của nhà nước và nhà nước cũng phải có trách nhiệm để bảo đảm các quyền làm chủ của nhân dân.
Để dân chủ thực sự là phương thức kiềm chế hiệu quả nạn tham nhũng, tiêu cực, các giải pháp cần thực hiện là: Nhà nước cần thể chế hoá cụ thể và chặt chẽ các quy định cũng như cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, qua đó phản ánh, kiến nghị, tố cáo những hành vi tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là thực hiện quyền bãi miễn của mình đối với những cán bộ tham nhũng; phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông; đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời mạnh dạn thí điểm và nhân rộng các hình thức động viên nhân dân tham gia đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của nhân dân, ban hành những quy định, cơ chế bảo vệ người dân trong cuộc đấu tranh này.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xác định rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bãi bỏ cơ chế xin - cho tài chính, bao cấp, chủ quản đối với doanh nghiệp, hình thành cơ chế quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh đa dạng hóa các hình thức sở hữu, xoá bỏ tính chất “vô chủ” trong tất cả các lĩnh vực thuộc sở hữu nhà nước. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, giảm tính độc quyền của các doanh nghiệp. Xử lý nghiêm các hợp đồng kinh tế có yếu tố tham nhũng.
Thứ sáu, đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan, tổ chức, từng cá nhân cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu quản lý hành chính nhà nước và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong thời kỳ mới. Đồng thời cải tổ các cơ quan công quyền nhằm giảm thiểu bộ máy quan liêu cũng như cơ hội cho tham nhũng.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động hành chính vốn có tác động trực tiếp đến quyền lợi thân thiết của người dân và doanh nghiệp; cải cách tài chính công để tạo ra các cơ quan giám sát hiệu quả được trang bị những kỹ năng về kế toán và kiểm toán cũng như cải cách việc mua sắm và quản lý tài sản công nhằm tạo ra những thủ tục công bằng, công khai và hiệu quả trong sử dụng tài sản công.
Thứ bảy, xây dựng và thực hiện một nền đạo đức công vụ trong toàn bộ hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức.
Tập trung xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử đảm bảo sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức công chức để hình thành các chuẩn mực đạo đức công vụ đúng đắn - nhân tố quan trọng để cán bộ, công chức miễn dịch với tệ tham nhũng bằng cách: Đề cao giá trị đạo đức, đề cao sự tự rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ, công chức; khuyến khích và tôn vinh sự hướng thiện vì lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước của cán bộ, công chức; khắc phục thói vô cảm, ích kỷ, vụ lợi trong khi thực hiện công vụ, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân... Đây là một công việc thường xuyên, liên tục, lâu dài; phải tiến hành một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; kết hợp giáo dục, tự giáo dục, xây và chống.
Nhanh chóng điều chỉnh, cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức làm cho cán bộ, công chức đủ sống bằng lương.
Đổi mới công tác cán bộ, hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng. Công khai hoá quá trình tuyển chọn, sử dụng, đánh giá cán bộ, công chức. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, lượng hoá kết quả học tập nhằm góp phần giải quyết những vấn đề mới của thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Trong bố trí, sắp xếp cán bộ, phải chấm dứt ngay tình trạng thiếu dân chủ, mang tính áp đặt, hiện tượng cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội bộ trong các tổ chức đảng, chính quyền.
Nâng cao nhận thức xã hội về những biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng; tuyên truyền cho người dân nhận diện các hành vi tham nhũng, thái độ căm ghét và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Đấu tranh với nạn tham nhũng là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, lâu dài, nhưng đang là một yêu cầu bức thiết, sống còn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước và đòi hỏi quyết tâm chính trị rất cao mới thực hiện được.
Nếu không đẩy lùi được “quốc nạn” này thì sự chệch hướng, mất vai trò lãnh đạo của Đảng không còn là nguy cơ nữa.
Phân tích đúng nguyên nhân, nêu rõ nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh này là cần thiết để góp phần thực hiện thắng lợi cuộc chiến chống tham nhũng. Đẩy lùi nguy cơ tham nhũng là sự tự đẩy lùi, tự đề kháng ngay trong Đảng, trong Nhà nước.  


Thứ Tư, 12 tháng 10, 2011

SỰ PHÁT TRIỂN TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC TRUYỀN THỐNG ĐẾN CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VÔ SẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - một giá trị văn hóa cao quí, chi phối đời sống tinh thần đạo đức, tư tưởng, tình cảm của mỗi người Việt Nam. Cùng với sự phát triển dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không những được lưu giữ, truyền lại qua nhiều thế hệ mà còn thường xuyên được củng cố, bổ sung, bồi đắp thêm nội dung mới cho phù hợp với mỗi thời đại lịch sử. Trong xu thế toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu sự phát triển từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh càng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhằm phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, đoàn kết cộng đồng, ý thức dân tộc, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình trí thức nho học, trên một vùng quê nghèo khó về kinh tế nhưng rất giàu truyền thống chống giặc ngoại xâm. Thời thơ ấu, Người đã nhận được sự giáo dục sâu sắc về lòng nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm yêu thương con người và sự tác động mạnh mẽ từ truyền thống yêu nước thương dân, truyền thống đoàn kết toàn dân. Người đã ý thức sâu sắc về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với sự bình yên của xóm làng và đời sống hạnh phúc mỗi gia đình được vun trồng trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Có thể nói, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hiện hữu trong con người Hồ Chí Minh. Bởi vậy, những từ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” trên lá cờ cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789) mà Người được nghe trong Trường tiểu học Pháp - Bản xứ ở Thành phố Vinh (1905) như ánh sáng hải đăng có sức hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ.
Đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh Việt Nam khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy mặt hạn chế không thể khắc phục được của các xu hướng cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản mà các vị tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu sử dụng. Người nhận xét cụ Phan Chu Trinh dựa vào Pháp để canh tân đất nước, điều đó là sai lầm, “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng “còn nặng cốt cách phong kiến”[1]. Thực tế lịch sử cho thấy, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được hình thành, củng cố và phát triển qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhưng trong thời đại mới, tư tưởng, tình cảm yêu nước và hành động cứu nước dù có cao đến đâu nếu dựa trên lập trường giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản thì vẫn bị bế tắc. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam cần được chiếu sáng của lý luận Mác-Lênin trong sự kết hợp với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt xa tầm nhìn về thời cuộc của các nhà yêu nước đương thời. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước theo một phương hướng mới, đến nước Pháp tìm hiểu chính kẻ thù đang áp bức dân tộc mình. Chứ không phải như một số quan điểm cho rằng trước khi sang Pháp Hồ Chí Minh muốn đi theo con đường cứu nước của cụ Phan Chu Trinh. Với nhãn quan chính trị sáng suốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc về độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, biết phê phán tư tưởng và xu hướng cứu nước sai lầm trước đó, biết kế thừa chọn lọc tình cảm yêu nước nồng thắm của người Việt Nam làm hành trang ra đi tìm đường cứu nước gắn với cứu dân khỏi đêm đen nô lệ. Vì vậy, Người đã tiếp cận được chân lý của thời đại là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công.
Ngày 5-6-1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên là Văn Ba xuống tàu Amiran Catusơ Tơrêvin làm phụ bếp, mở đầu cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước. Đây là mốc lịch sử quan trọng trong quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước vô sản ở Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động thực tiễn ở nhiều nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tận mắt thấy cuộc sống khổ cực của nhân dân các dân tộc thuộc địa và cũng đã thấy sự bất công ngay trên các nước tư bản phát triển. Người khẳng định: ở Pháp cũng những người Pháp tốt, ở Pháp cũng có người ngèo như ở bên ta, những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo. Qua đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm hình thành tình cảm quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu nước vốn có trong Hồ Chí Minh bắt đầu mang một tình cảm mới, làm cơ sở cho chủ nghĩa quốc tế vô sản của dân tộc Việt Nam sau này. Đó là sự đồng cảm, đau xót cảnh tượng các dân tộc thuộc địa và người lao động bị áp bức bóc lột dã man. Chính do sự thông cảm, yêu thương những người cùng khổ mà tình cảm và ý thức giai cấp ở Hồ Chí Minh dần dần được hình thành - một tình cảm cách mạng, mang tính nhân văn sâu sắc. Sau đó Người khẳng định: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[2].
Năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lấy tên là Nguyễn ái Quốc) thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Nội dung Bản yêu sách đó nêu lên là đòi quyền tự do dân chủ cho mọi người dân gắn với quyền tự quyết dân tộc thiêng liêng của họ. Yêu cầu thích đáng của nhân dân Việt Nam trong Bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận, nhưng đã gây một tiếng vang lớn trong nhân dân Pháp và các nước thuộc địa. Bản yêu sách được in thành những truyền đơn phân phát trong các cuộc mít tinh của nhân dân Pháp, phát cho tất cả các việt kiều và bí mật gửi về Việt Nam. Nhờ đó, nhiều người Pháp đã hiểu thêm về Việt Nam. ý thức dân tộc, dân chủ của nhân dân Việt Nam cũng được thức tỉnh tạo tiền đề cho việc tập hợp lực lượng cách mạng trong nước và mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam chống chủ nghĩa đế quốc.
Từ những nhận thức rút ra trong thực tiễn gần mười năm tìm đường cứu nước, tháng Bảy năm 1920 khi đọc Sơ thảo lần nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy lời giải đáp của Lênin và Quốc tế Cộng sản về con đường giải phóng dân tộc. Người nói: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[3]. Sự kiện lịch sử Hồ Chí Minh đọc Luận cương của Lê-nin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa là mốc đánh dấu Người tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Trước hết, sự kiện này tạo nên một bước nhảy vọt lớn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong lập trường chính trị và tư tưởng cứu nước của Người, hình thành ở Người chủ nghĩa yêu nước kiểu mới dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Trên cơ sở kế thừa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, chủ nghĩa yêu nước vô sản của Hồ Chí Minh kết hợp hài hòa các mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp và quốc tế, thể hiện tập trung ở mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc gắn liền với mục tiêu và con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự ra đời, hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh trong những năm 1911 đến 1920 là quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, với mục tiêu chung phấn đấu cho độc lập tự do của dân tộc, ấm no hạnh phúc của nhân dân đến mang tình cảm quốc tế trong sáng, sau đó hòa quyện trong chủ nghĩa cộng sản là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng, tình cảm yêu nước của Hồ Chí Minh. Khi bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin thì chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh được nâng lên, tỏa sáng trên lập trường giai cấp công nhân. Từ đây chủ nghĩa Mác-Lênin có điều kiện thâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, trước hết là phong trào công nhân và phong trào yêu nước dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa Xuân năm 1930.
Suốt hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không ngừng bồi đắp những giá trị mới cao đẹp hơn. Tư tưởng và tình cảm yêu nước của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sức mạnh lớn lao trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.


[1] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 13.
[2] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 192.
[3] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 83.