Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

RÈN LUYỆN PHONG CÁCH HỌC TẬP HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN


Tóm tắt: Trong toàn bộ di sản vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc và nhân loại, phong cách của Người nói chung và phong cách học tập nói riêng là một bộ phận hết sức quan trọng. Nghiên cứu ngày càng sâu về phong cách học tập Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm vĩ đại của Người với tư cách là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn lỗi lạc và là tấm gương sáng ngời đã để lại những bài học quý giá trở thành chuẩn mực cho việc xây dựng và rèn luyện phong cách học tập của người cán bộ cách mạng, bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Không chỉ là người nêu lên lý luận, tư tưởng về phong cách học tập mà bản thân Người còn là một tấm gương tiêu biểu về thực hành phong cách học tập đúng đắn. Nghiên cứu hệ thống di sản lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng, chúng ta có thể khẳng định: Phong cách học tập Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản của phong cách Hồ Chí Minh, là sự thống nhất hữu cơ giữa những quan điểm, tư tưởng toàn diện, sâu sắc với tấm gương tiêu biểu, mẫu mực của Người về học tập, được thể hiện ở động cơ học tập trong sáng, thái độ học tập đúng đắn, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo theo phương châm “lấy tự học làm cốt”.
Phong cách học tập Hồ Chí Minh là một cống hiến quan trọng, là đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận dạy - học của nước ta; trở thành một triết lý học tập; một giá trị nhân sinh cao đẹp, tiêu biểu cho trí tuệ, tâm hồn và phong cách Việt Nam - phong cách đó rất gần gũi, dung dị mà sâu sắc; uyên bác mà dễ hiểu, dễ tiếp thu và chuyển hóa, có thể học tập và làm theo. Phong cách học tập Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động của phương Đông, đồng thời được soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nên rất đa dạng, phong phú, sinh động nhưng sâu sắc. Phong cách học tập đó không những tạo cơ sở khoa học mà còn là tấm gương mẫu mực và thiết thực cho mọi người học tập và tự học tập suốt đời để vươn lên không ngừng. Phong cách đó không chỉ là lý luận mà còn là cách thức và phương pháp soi đường và chỉ dẫn cho chúng ta học tập và noi theo.
Nét đặc trưng trong phong cách học tập Hồ Chí Minh mang tính độc đáo, đó là phong cách học tập hàm chứa những yếu tố rất giản dị, đại chúng với động cơ, mục đích cao cả, trong sáng mà thiết thực; với thái độ cầu thị, khiêm tốn nhưng lại đòi hỏi rất cao và hết sức nghiêm túc; với phương pháp học tập khoa học mà dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng, lứa tuổi... Cụ thể là:
Một là, động cơ học tập trong sáng vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì sự tiến bộ của nhân loại.
Quan tâm, chăm lo tới sự nghiệp giáo dục của nước nhà, Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người thi đua học tập, coi học tập là nhiệm vụ thường xuyên, suốt đời, “còn sống thì còn phải học”[1]. Và trong việc học tập Người đặc biệt chú trọng đến động cơ, thái độ học tập: “Muốn học tập có kết quả thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng”[2]. Tức là, trước hết phải có động cơ học tập đúng để xác định rõ và đúng xu hướng nghề nghiệp chân chính của mình là vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người và vì sự tiến bộ của chính bản thân mình. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc học tập là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại ”[3].
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào người học cũng phải nỗ lực, cố gắng và phải xây dựng cho mình một động cơ học tập đúng đắn; đồng thời không cho phép tồn tại những tư tưởng cơ hội, vụ lợi, thực dụng, ích kỷ cá nhân, hay những biểu hiện lười học tập, ngại rèn luyện, hoặc là dùng mọi thủ đoạn nhằm đạt kết quả cao trong học tập. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin vào đoàn thể, vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách mạng, học để hành”[4]; “học để làm việc”; chứ không phải học để “làm ông nọ bà kia”, hay là để “làm quan cách mạng”… cho nên, “tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch”[5]. 
            Động cơ chính là động lực bên trong của mỗi con người, sự thể hiện nó được biểu hiện qua hành vi, thái độ và việc làm của con người đó. Do vậy, chỉ khi nào xác định được động cơ học tập đúng đắn thì mỗi chúng ta mới có thái độ và phương pháp học tập đúng đắn và khoa học.
Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của việc học tập đối với người cán bộ cách mạng. Trong nhiều lần nói chuyện với giới trí thức, Bác thường nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc học tập: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời”[6]. Trên cơ sở nắm bắt được xu thế của thời đại và khả năng dự báo được tương lai, Người đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có hạn. Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập”[7] và “nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được ... không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình”[8]. Người thường dẫn câu nói của Lênin “Học, học nữa, học mãi” để nhắc nhở bản thân, để giáo dục cán bộ, đảng viên và mọi người.
Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu gương mẫu mực về động cơ học tập trong sáng. Người học tập với một động cơ hết mực trong sáng và với một ý nguyện thật cao cả; việc học tập đó không chỉ dừng lại ở sự mở rộng vốn hiểu biết, nâng cao trình độ tri thức và tiến bộ của bản thân, đó cũng hoàn toàn không phải vì bằng cấp nọ, học vấn kia… mà quan trọng hơn là để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, làm cho đất nước độc lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[9]. Động cơ và mục đích này luôn luôn trở thành động lực thường xuyên và trực tiếp thôi thúc Bác một cách mạnh mẽ trong việc học tập, tiếp thu tri thức nhân loại.
Hai là, thái độ học tập đúng đắn, khiêm tốn, say mê, cầu thị, chân thành, không kiêu ngạo, không dấu dốt. 
            Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các bài nói bài viết của mình luôn nhắc nhở chúng ta rằng: “Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi”[10] và “người nào tự cho là đã biết đủ rồi, thì người đó dốt nhất”[11], mỗi người phải biết khiêm tốn, chớ “kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập”[12]. Đức tính khiêm tốn yêu cầu, đòi hỏi con người ta không được thỏa mãn với vốn kiến thức của mình và cũng không được phép bằng lòng với những thành tích đã đạt được. Chúng ta còn nhớ, khi đánh giá về vai trò của tầng lớp trí thức nước nhà, với thái độ khách quan, đúng mực. Người đã nói: “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì cách mạng khó khăn thêm nhiều. Nhưng có nhiều người trí thức vì thế mà kiêu ngạo, lên mặt. Chứng kiêu ngạo và lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn trở họ tiến bộ... Vì vậy, những người tri thức đó cần phải biết rõ cái khuyết điểm của mình. Phải khiêm tốn, chớ kiêu ngạo”[13]. Chính bản thân Hồ Chí Minh cũng đã nêu gương mẫu mực về thái độ khiêm tốn, say mê và cầu thị, không dấu dốt trong học tập.
Những mẩu chuyện về thời trẻ của Người cho biết, trong học tập những gì chưa hiểu, chưa rõ Người đều hỏi thầy giáo một cách rất cặn kẽ. Nếu thầy trả lời chưa rõ, Người tiếp tục hỏi nữa, hỏi cho đến lúc nào thấu đáo mới thôi. Người bảo: hỏi thầy giáo về cái mình chưa hiểu hoặc không hiểu như thế là cần thiết. Thế mới gọi là “học hỏi”. Không chỉ hỏi để hiểu đối với những điều sách vở nói sai với thực tế, không hợp lôgic, mà Người cũng luôn mạnh dạn đặt ra những vấn đề với thầy giáo, chứ không tiếp nhận tri thức một cách máy móc, xuôi chiều. Mặt khác, ở Hồ Chí Minh, mặc dù biết rộng hiểu sâu nhưng khi tiếp xúc, trao đổi với bạn bè, đồng chí về vấn đề gì, bao giờ Người cũng nói: “Theo tôi nhớ thì thế này...”, hoặc “Có lẽ ý của chỗ này là thế này...”, đối với mỗi người thì “cái gì biết, thì nói biết, không biết thì nói không biết”. Và tuyệt nhiên không được lấy việc xem nhiều sách để mà “lòe” người khác, “để làm ra ta đây, thế không phải là biết lý luận”[14].    
Chính Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần học tập suốt đời. Cho đến những năm cuối đời mình, Người vẫn chú trọng, không sao nhãng việc học tập. Tháng 5-1966, trong một buổi nói chuyện với các đồng chí đảng viên mới ở Hà Nội, Người đã nói: “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”[15].
Ba là, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả theo phương châm “lấy tự học làm cốt”.
Việc xác định đúng động cơ và thái độ trong học tập là nội dung hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng để hiện thực hóa động cơ, thái độ đó; đòi hỏi tất yếu khách quan là phải xây dựng được phương pháp học tập khoa học. Vì vậy, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và thông qua quá trình đó, Người đã hình thành cho mình một phương pháp học tập khoa học, đó là con đường tự học, với phương châm “lấy tự học làm cốt[16] và phải biết “tự động học tập”. Theo Hồ Chí Minh, tự học được xem như một quy luật của sự tồn tại, sự tự khẳng định và phát triển cá nhân; là điều kiện tiên quyết để hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực toàn diện của mỗi người. Người chỉ rõ: tự học, tự rèn, tự tu dưỡng cũng giống như “mài ngọc luyện vàng”, “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Bởi vì, theo Người: “Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có”[17].
Trong tự học phải xác định đúng nội dung tự học, “học cái gì”? Theo Hồ Chí Minh, nội dung tự học rất rộng lớn, bao gồm: học tập lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, đạo đức… trong đó, Người luôn coi trọng việc học tập lý luận; bởi lẽ “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Người luôn đặt ra yêu cầu: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”[18]. Mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất nhân cách và đạo đức cách mạng.
         Muốn tự học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học. Kế hoạch học tập đó không phải là một sự tự do, tùy ý mà được xây dựng một cách chủ động, trên cơ sở căn cứ vào tình hình công việc, khả năng, thời gian và điều kiện phù hợp. Trong điều kiện thời gian không cho phép thì phải nắm cho được những vấn đề cơ bản, “phải thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Đặc biệt, theo Người, phải tự nguyện, tự giác; tích cực, chủ động và kiên trì, bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng, phải xem công việc học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập; nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.
Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để học. Người vạch ra: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”[19]; “Học tập trong việc làm hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ”[20]. Học tập trong kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, “học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[21]. Học đi đôi với hành cùng một lúc sẽ hình thành ở người học cả tri thức lẫn kỹ năng; do đó, “hành” trở thành một hình thức chính của “học”, quá trình “học” xảy ra trong chính quá trình “hành”. Trong buổi nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Ngày 20/10/1964), Người đã khuyên: Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau.
Mặt khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu gương mẫu mực về phương pháp học tập - tự học.
Người sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước ở xứ Nghệ. Lúc còn nhỏ, tuy không được đào tạo, học hành qua một trường lớp chính quy nào, nhưng được sự giáo dục của gia đình và bằng con đường tự học mà Người đã thông kinh sử nước nhà, hiểu biết rất cặn kẽ lịch sử thế giới, nắm chắc Đông, Tây, kim cổ, am hiểu sâu sắc các học thuyết Nho giáo, Phật giáo cũng như các trường phái triết học phương Tây; thông thạo nhiều ngoại ngữ; đặc biệt là thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin… trên cơ sở đó Người xác định và lựa chọn con đường cứu nước duy nhất đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vô sản.
Tại Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (1935), mọi người đã hết sức kinh ngạc và khâm phục khi đọc bản khai lý lịch của Người với bí danh là Lin, đó là: khi trả lời câu hỏi về trình độ học vấn - Người ghi: “Tự học”; tiếp theo mục: Đồng chí biết ngoại ngữ gì? Trả lời: Anh, Pháp, Ý, Nga, Trung Quốc, Đức… Để có được thành quả đó không thể nào khác ngoài con đường tự học tập, với một tinh thần cầu thị và ý chí kiên trì, bền bỉ và sáng tạo. Trong suốt cuộc hành trình bôn ba, gian khổ từ Châu Á sang Châu Âu, Châu Phi và Mỹ La Tinh là tất cả quỹ thời gian Người dành cho việc tự học tập, tự rèn luyện bản thân, với ý thức “việc nên không cần ai nhắc, việc không nên không cần ai ngăn”. Có lẽ, tự học, tự rèn đã trở thành triết lý sống và hành động của Hồ Chí Minh từ đó.        
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ lúc thanh niên cho đến khi trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, thành người chiến sĩ xuất sắc của phong trào cộng sản quốc tế là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ về mọi mặt của bản thân. Sự thành công của Người trong việc tiếp thu chân lý vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin và trong việc sáng tạo sách lược đấu tranh cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến cũng chính là kết quả của một quá trình tự học kiên trì, gian khổ trong cuộc đấu tranh cách mạng liên tục, kiên cường. Người đã tổng kết những kinh nghiệm quý báu về quá trình học tập - tự học suốt cả đời mình và đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá. Tuy nhiên, tự học ở Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tuỳ ý, vô nguyên tắc… trái lại, việc tự học của Người đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai; tinh thần sáng tạo; tranh thủ mọi lúc mọi nơi, mọi phương tiện và hình thức để học; học đến đâu ra sức luyện tập, trau dồi đến đó.
Để học tập và rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh là một việc làm rất cần thiết ttrong điều kiện hiện nay, tuy nhiên đó là việc khó khăn, đòi hỏi chúng ta cần phải thực hiện có hiệu quả các biện pháp cơ bản sau: 
Trước hết, thực hiện tốt việc giáo dục, rèn luyện động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh.
Việc giáo dục, rèn luyện động cơ học tập cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh có thể được tiến hành theo những nội dung và cách thức khác nhau, trong đó cần tập trung vào một số nội dung sau: phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng sư phạm của nhà trường trong giáo dục, rèn luyện động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên; đề cao ý thức tự giác rèn luyện động cơ, mục đích học tập đúng đắn của mỗi sinh viên; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục với động viên tư tưởng, quan tâm động lực tinh thần.
Hai là, bồi dưỡng thái độ học tập tích cực, say mê, nghiêm túc, khiêm tốn, cầu thị; rèn luyện nghị lực học tập bền bỉ, nỗ lực khắc phục khó khăn, gian khổ cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh
Để làm được điều này, cần phải hướng đến tổ chức và thực hiện tốt việc bồi dưỡng cho sinh viên sự say mê, nghiêm túc, cầu thị trong học tập, nghiên cứu; rèn luyện cho tinh thần học tập tự tin, chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu;  rèn luyện nghị lực học tập cao và ý thức vượt mọi khó khăn, trở ngại trong học tập, nghiên cứu cho sinh viên.
Ba là, rèn luyện kỹ năng, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả cho sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh
Tập trung rèn luyện kỹ năng nghe giảng và ghi chép, rèn luyện kỹ năng tự học. Cần đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng “lấy tự học của người học làm cốt...” nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản, toàn diện cả về phương pháp dạy của giảng viên, phương pháp học của sinh viên, phát huy tối đa tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của từng người và tập thể lớp học; qua đó bồi dưỡng năng lực tự học, tự đào tạo, năng lực thực hành nghề nghiệp. Phải chuyển từ lối “truyền thụ một chiều” sang “dạy cách học”; chuyển từ cách học thụ động sang cách học chủ động; rèn luyện kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề.
Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập theo tấm gương Hồ Chí Minh
Đây là biện pháp giữ vai trò quyết định trực tiếp chất lượng, hiệu quả của hoạt động rèn luyện này. Trong đó, trước hết, sinh viên phải có ý thức tự bồi dưỡng phong cách học tập đúng đắn cho bản thân và cần xây dựng kế hoạch, nội dung tự rèn luyện thật sự thiết thực và khoa học. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo và kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp cụ thể để nâng cao chất lượng tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh. Xây dựng môi trường văn hóa sư phạm mẫu mực nhằm tích cực hóa hoạt động tự bồi dưỡng, rèn luyện phong cách học tập của sinh viên.
KẾT LUẬN
Học tập và rèn luyện phong cách học tập của sinh viên theo tấm gương Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa thiết thực và bổ ích; là động lực trực tiếp và là cơ sở khoa học để góp phần xây dựng, phát triển và hoàn thiện động cơ, mục đích và thái độ học tập đúng đắn; phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả. Thông qua đó góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường; xây dựng và hoàn thiện mô hình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; đồng thời, góp phần thực hiện có chất lượng, hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện nay.




[1] Hồ Chí Minh, Về vấn đề học tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 84 – 85.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.94.
[3] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.684.
[4] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.50.
[5] Hồ Chí Minh, Sđd., t.8, tr.497.
[6] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.33.
[7] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.34.
[8] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.68.
[9] Hồ Chí Minh, Sđd., t.4, tr.161-162.
[10] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.38.
[11] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.22.
[12] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.58.
[13] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.11-12.
[14] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.11.
[15] Hồ Chí Minh (1977), Sđd., tr.84-85.
[16] Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr.67.
[17] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.235.
[18] Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr.235.
[19] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.52.
[20] Những lời Bác dạy, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1975, tr.43.
[21] Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.50.

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng: “quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”[1]. Quan niệm về đời sống mới ở mỗi gia đình, Bác nói: “Về tinh thần, thì phải trên thuận, dưới hòa, không thiên tư, thiên ái. Bỏ thói mẹ chồng hành ha nàng dâu, dì ghẻ ghét bỏ con chồng. Về vật chất, từ ăn mặc đến việc làm, phải ăn đều, tiêu sòng. Có kế hoạch, có ngăn nắp”[2]. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ: “Cấm: tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi... Cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con dâu... Trong gia đình vợ chồng bình đẳng về mọi mặt... Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ... xây dựng gia đình hoà thuận, hạnh phúc.... Gia đình là hạt nhân của xã hội. Mọi gia đình đều đoàn kết cộng lại thành xã hội đại đoàn kết”[3].
Lịch sử đã chứng minh, trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, thuỷ chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù và sáng tạo trong lao động, bất khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chính vì thế, trong điều kiện nước ta đang phát triển và đi lên trong xu thế hội nhập, Đảng ta cũng đặc biệt chú trọng đến vai trò của gia đình. Tại Đại hội X, Đảng ta xác định: Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[4]. Còn trong Đại hội Đảng lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục chủ trương: “Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng...; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình... làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc... Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”[5]. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng cũng khẳng định vai trò quan trọng của gia đình: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách[6].
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Kinh tế hộ gia đình thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hàng năm. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở phát triển, ngày càng có nhiều gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, làng văn hoá, cụm dân cư văn hoá, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt là trong 10 năm qua, kể từ ngày Đảng và Nhà nước ta quyết định lấy ngày 28/6 hằng năm là “Ngày Gia đình Việt Nam”, phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở các địa phương trong cả nước ngày càng phát triển về chiều rộng và bề sâu. Thu hút trên 90% gia đình sinh sống ở nông thôn, hoặc gia đình cư trú trên địa bàn khu dân cư tham gia. Nếu như năm 2000, cả nước mới có gần 8,7 triệu gia đình văn hóa thì đến năm 2010, con số này là hơn 16 triệu hộ. Cả nước đã có trên 1,2 triệu “người tốt, việc tốt” được suy tôn (tăng 2,4 lần). Bên cạnh đó, năm 2000 chỉ có 17.651 làng, tổ dân phố văn hóa trên cả nước được công nhận thì đến nay đã có đến 58.284 làng, tổ dân phố văn hóa. Hiện cả nước có trên 120.000 đơn vị và khu dân cư thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội. Từ khi phát động phong trào đến nay, việc tổ chức lễ hội đã được tiến hành chặt chẽ nên nạn cờ bạc, cá độ giảm 60%, hoạt động mê tín, dị đoan giảm 59%, tổ chức tràn lan, lãng phí giảm 47%. Nhờ đó, thiết chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng được duy trì và phát triển. Các nội dung văn hóa gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng phát triển đa dạng.
Trong giai đoạn 2008-2010, cả nước giảm 70% số vụ bạo lực gia đình. “Mô hình can thiệp phòng, chống bạo lực gia đình” được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch triển khai từ tháng 8.2008 tại 75 xã, phường thuộc 63 tỉnh, thành phố. Sau ba năm thực hiện mô hình, cả nước có khoảng 2.500 câu lạc bộ “Xây dựng phát triển gia đình bền vững” với 525.000 hộ gia đình tham gia; 320 nhóm “Phòng, chống bạo lực gia đình” với 1.600 thành viên; tổ chức 3 đợt tập huấn về mô hình cho 189 cán bộ tuyến tỉnh và 192 đợt cho 7.680 cán bộ tuyến xã. Tổng số vụ bạo lực gia đình tại các xã triển khai năm sau giảm 50% so với năm trước (từ 1.071 vụ vào năm 2008 xuống còn 525 vào năm 2009 và 283 vụ vào năm 2010). Việc hình thành các tổ, nhóm, câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình tại các xã thí điểm sẽ giúp các địa phương trong việc nhân rộng mô hình ra toàn tỉnh. Đến thời điểm hiện tại, đã có 44/63 tỉnh, thành có kế hoạch nhân rộng mô hình trong giai đoạn 2011 - 2015, với số kinh phí khoảng 40 tỉ đồng.
Xây dựng gia đình văn hóa đã thực sự trở thành môi trường giáo dục quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần của các thành viên trong gia đình; đơn vị trực tiếp và trọng yếu thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng. Trên 16.000 gia đình văn hóa đã làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa, mở mang ngành, nghề, thu hút và tạo việc làm cho hàng vạn lao động ở nông thôn. Từ phong trào “Xây dựng Gia đình văn hóa”, nhất là từ những tấm gương của các Gia đình văn hóa tiêu biểu đã phát huy được sự tự chủ, sáng tạo của nhân dân trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí lao động, tổ chức sản xuất, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của địa phương, góp phần mạnh mẽ vào việc mở mang ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với nhu cầu thị trường. Vì vậy, số hộ khá, hộ giàu ngày càng tăng, số hộ đói nghèo, nhất là hộ nghèo ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa giảm hẳn. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, các gia đình văn hóa luôn quan tâm nâng cao chất lượng cuộc sống, gia đình hòa thuận, hạnh phúc, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Quyền trẻ em đã được pháp luật thừa nhận, được xã hội và gia đình thực hiện và phát huy. Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện để thực hiện hôn nhân bình đẳng và tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình còn nhiều thiếu sót và bất cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống không kết hôn, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang làm cho xã hội lo lắng. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tệ nạn xã hội như ma tuý, cờ bạc, rượu chè bê tha, mại dâm và nạn dịch HIV/AIDS đang thâm nhập vào các gia đình. Bạo hành trong gia đình, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em bị xâm hại, trẻ em phải lang thang kiếm sống, trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng phát triển.
Theo Nghiên cứu quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam (Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 4.838 phụ nữ từ 18 đến 60 tuổi, đại diện cho nữ giới thuộc độ tuổi này ở Việt Nam. 90 cuộc phỏng vấn chuyên sâu và 4 cuộc thảo luận nhóm cũng đã được tiến hành tại Hà Nội, Huế và Bến Tre) được Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc công bố ngày 25/11/2010, cứ ba phụ nữ có gia đình hoặc đã từng có gia đình thì có một người (34 phần trăm) cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Số phụ nữ có hoặc từng có gia đình hiện đang phải chịu một trong hai hình thức bạo hành này chiếm 9 phần trăm. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng – thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58 phần trăm) phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức bạo lực gia đình kể trên. Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng. Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42 phần trăm phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực, nhưng sự khác biệt lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động từ 8 phần trăm (người H’Mong) đến 36 phần trăm (người Kinh). 
Cùng với đó, nhiều gia đình vẫn đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Hàng trăm ngàn trẻ em nạn nhân của chất độc da cam đang là nỗi đau của nhiều gia đình. Hàng ngàn gia đình có thân nhân bị chết, bị tàn tật do bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Những mất mát, đau thương của hàng triệu gia đình trong chiến tranh sau gần ba chục năm qua vẫn chưa thể bù đắp. Công tác xoá đói, giảm nghèo ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả chưa vững chắc, đặc biệt là ở vùng duyên hải, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chuyển hướng ngành nghề cho những hộ gia đình làm nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá và phát triển công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Nguyên nhân của tình hình nói trên có phần do nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của gia đình và công tác gia đình, công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa theo kịp sự phát triển của đất nước; những mặt tích cực của gia đình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được phát huy. Nhiều vấn đề bức xúc về gia đình chưa được xử lý kịp thời. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể chưa quan tâm đúng mức việc nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo công tác gia đình. Công tác giáo dục trước và sau hôn nhân, việc cung cấp các kiến thức làm cha mẹ, các kỹ năng ứng xử của các thành viên trong gia đình chưa được coi trọng. Nhiều gia đình do quá tập trung làm kinh tế đã xem nhẹ việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ các thành viên, đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và hội nhập quốc tế tạo nhiều cơ hội và điều kiện, đồng thời cũng đặt gia đình và công tác gia đình trước nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thực dụng tác động mạnh tới các giá trị đạo đức truyền thống và lối sống lành mạnh. Sự phân hoá giàu nghèo sẽ tiếp tục tác động vào số đông các gia đình. Nhiều gia đình nếu không được hỗ trợ, không được chuẩn bị đầy đủ sẽ không đủ năng lực đối phó với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội và không làm tròn các chức năng vốn có của mình. Xu thế thu nhỏ gia đình trong xã hội công nghiệp nếu không được định hướng sẽ tiếp tục gây sức ép về nhà ở cũng như đặt việc chăm sóc trẻ em và người cao tuổi vào một thách thức mới.
Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, những khó khăn và thách thức nêu trên sẽ tiếp tục làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để góp phần giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Tiếp tục giáo dục, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển. Từ đó, đề cao trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên gia đình. Bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện các văn bản luật, các chủ trương chính sách về xây dựng gia đình. Để công tác xây dựng văn hoá gia đình trong thời kỳ mới phát huy hiệu quả, rất cần có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ chính quyền ở địa phương. Quy chế xây dựng gia đình văn hoá ở khu dân cư cần được thực hiện đồng bộ, sáng tạo, thiết thực. Theo đó, quá trình xét và công nhận gia đình văn hoá, làng văn hoá cần dựa trên những tiêu chí cụ thể, sát thực và phải được tiến hành nghiêm túc, tránh hình thức, chiếu lệ. Đặc biệt cần chống căn bệnh thành tích đang ăn sâu vào nếp nghĩ của nhiều cán bộ lãnh đạo các địa phương.
Đẩy mạnh, đổi mới và đa dạng hoá công tác truyền thông, tăng cường phổ biến, giáo dục để cả hệ thống chính trị, các đoàn thể, tổ chức và mọi công dân, mọi thành viên gia đình thấm nhuần chiến lược xây dựng và phát triển gia đình, Luật Hôn nhân Gia đình, quyền trẻ em và bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân số; đưa chủ đề gia đình vào các chương trình tuyên truyền, nêu gương người tốt việc tốt và phê phán những biểu hiện không lành mạnh ảnh hưởng cuộc sống gia đình. Trên cơ sở luật pháp của Nhà nước, các cơ quan chức năng cần vận dụng sáng tạo nhằm cụ thể hoá các văn bản, các quy định phù hợp với điều kiện gia đình ở địa phương theo hướng đề cao nhân tố gia đình văn hoá tiêu biểu; có chế tài đủ hiệu lực để răn đe những hành vi vi phạm làm băng hoại hiếu thuận, lễ nghĩa trong gia đình mà các điều khoản luật pháp mới chỉ xác định ở định tính; hướng dẫn các biện pháp cụ thể, mang tính cộng đồng nhằm ngăn chặn có hiệu quả và đấu tranh mạnh mẽ loại trừ các hủ tục trong đời sống xã hội và các tệ nạn đang diễn ra trong đời sống gia đình.
Những mô hình về gia đình văn hoá, những tấm gương cha mẹ nuôi dạy con cái ngoan ngoãn, giỏi giang hay con cháu lễ nghĩa hiếu thuận với ông bà, cha mẹ cần được nhân rộng phổ biến. Những cách hành xử phù hợp, những bài học về mối quan hệ yêu thương, đùm bọc giữa các thành viên trong gia đình sẽ là hành trang quan trọng để mỗi người có thể giải quyết được những tình huống khó khăn trong cuộc sống.  Đặc biệt, các cặp vợ chồng trẻ cần cập nhật, tìm hiểu kỹ luật hôn nhân và gia đình để từ đó, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người trong việc vun vén xây dựng cho tổ ấm của mình. Công tác tư vấn, giáo dục tiền hôn nhân rất cần sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ…
Đặc biệt, nhìn về lâu dài, phải có chương trình giáo dục văn hoá gia đình cho học sinh, bởi đây là những chủ thể, hạt nhân của các gia đình trong tương lai. Ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, giới trẻ cần được trang bị những kiến thức nền tảng về văn hoá gia đình.  Xây dựng mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa gia đình - nhà trường và các tổ chức xã hội để có sự thống nhất, đồng thuận trong thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em. Xã hội cần hỗ trợ các bậc cha, mẹ để họ có những phương pháp, biện pháp, nội dung giáo dục mới phù hợp với sự thay đổi những giá trị mới của gia đình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời, bảo đảm đủ nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà nước và huy động sự đóng góp của toàn xã hội cho công tác gia đình. Đưa nội dung công tác này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các kế hoạch hàng năm của ngành và của địa phương. Củng cố và ổn định cơ quan uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp cơ sở, đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước và phối hợp liên ngành về công tác gia đình.
Có chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo việc làm, tăng thu nhập, nhất là tạo việc làm tại chỗ, nhằm từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của gia đình. Cùng với đó, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và nâng cao hệ thống dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình và cộng đồng, tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình cho các gia đình nghèo, vùng ven biển, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; có chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai, gia đình neo đơn tàn tật... Đồng thời, quan tâm tới các gia đình đã nhường đất sản xuất cho đô thị hoá, phát triển công nghiệp và các hộ di dân; triển khai và mở rộng các loại hình dịch vụ an sinh xã hội để nâng cao năng lực tự chủ của mỗi gia đình, đảm bảo cho các gia đình có cơ hội tiếp cận sự bảo trợ của Nhà nước, ổn định cuộc sống, chăm lo giáo dục con cái và chăm sóc người cao tuổi. Xây dựng môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện thoái hóa, biến chất về đạo đức, những tệ nạn xã hội, tham nhũng, lãng phí và lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền. Cùng với đó, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát toàn diện về gia đình, đặc biệt là nghiên cứu các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình cần gìn giữ, phát huy, những giá trị mới, tiên tiến cần tiếp thu; nghiên cứu xây dựng các mô hình gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; áp dụng các kết quả nghiên cứu để giải quyết những thách thức trong lĩnh vực gia đình và dự báo những biến đổi về gia đình trong thời kỳ mới.
Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới, nó là tổ ấm tràn đầy tình yêu thương nuôi dưỡng mỗi con người lớn lên và trưởng thành… Chính vì thế, Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá của gia đình.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, T.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.523.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.100.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.661-662.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.103-104.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.223.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.77.

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NĂM 1945, GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ THỜI ĐẠI

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử 65 năm qua, Tuyên ngôn Độc lập vẫn như ngày nào, vang vọng khắp non sông, là ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách của dân tộc ta trong thời đại mới. Bản Tuyên ngôn bất hủ này mãi đi cùng lịch sử dân tộc Việt Nam ta không chỉ với tư cách một áng văn lập quốc vĩ đại, một kiệt tác về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn với tư cách là bản tổng kết những giá trị tinh thần của cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc ta, nhân dân ta; đồng thời cũng là lời Tuyên ngôn mở đầu kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Khẳng định các quyền cơ bản của con người: Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố về quyền lựa chọn con đường độc lập, tự do của mỗi dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”[1], và quyền được sống, được tồn tại, được mưu cầu hạnh phúc của mỗi dân tộc, con người: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”[2]. Điều này khác với độc lập dân tộc giành được theo con đường cách mạng dân chủ tư sản, ở đây, độc lập dân tộc gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động.
Là sự khẳng định quyền bất khả xâm phạm của dân tộc: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới chính là sự kế thừa có sáng tạo để nâng lên tầm cao mới quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc – “Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”[3]. Vì những quyền thiêng liêng nhất ấy mà cả dân tộc ta, hết thảy mọi người dân nước Việt “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[4] và cho “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, dân tộc Việt Nam cũng “kiên quyết giành cho được độc lập”, cũng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, quyết tâm thực hiện bằng được độc lập, thống nhất trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước, thực hiện quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới, khẳng định quyền thực sự làm chủ đất nước của mọi người dân nước Việt và nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường, không bao giờ cam tâm làm nô lệ của dân tộc ta, nhân dân ta.
Khẳng định ý chí, bản lĩnh, trí tuệ của con người, dân tộc Việt Nam: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn thể hiện sâu sắc truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, ý chí độc lập tự chủ, tự lực tự cường mà dân tộc ta đã hun đúc nên qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã không phải một lần đối đầu với những thách thức khốc liệt và phải tự mình lựa chọn hoặc là “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, chấp nhận hy sinh, mất mát cho dù có to lớn đến đâu chăng nữa, kể cả tính mạng, xương máu, kể cả phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để giữ vững quyền tự do, độc lập cho dân tộc, hoặc là chịu sự đồng hóa, nô dịch để rồi đi đến chỗ diệt vong.
Lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đoàn kết, anh dũng nhất tề đứng dậy giành chính quyền, “đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm… để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[5]. Bởi vậy, nước Việt Nam mới (VNDCCH) hoàn toàn có quyền “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Và, thế giới “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”, bởi “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm…, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít…, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[6].
Chính vì thế, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Rằng, “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[7]. Bản tuyên ngôn này khẳng định nền độc lập, tự do của dân tộc là điều kiện đầu tiên, bao trùm và tiên quyết cho việc tạo dựng các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân ta.
Mở ra một kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại đương đại – thời kỳ các nước thuộc địa và nửa thuộc địa vùng lên giành độc lập, làm tan rã chế độ thực dân cũ, đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội theo con đường quá độ. Đồng thời, khẳng định quyền dân tộc, đó là sự độc lập về chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn về lãnh thổ. Độc lập cho dân tộc mà Người khẳng định ở đây là nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn của một dân tộc. Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh… và toàn vẹn lãnh thổ.
Nền độc lập đó phải được thực hiện một cách triệt để mà theo đó, nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nền độc lập đó chỉ có ý nghĩa và giá trị thực sự, khi nó được thể hiện bằng quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. Dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ và hạnh phúc, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành không chỉ là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định khi trịnh trọng tuyên bố với thế giới Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới, mà còn là hoài bão, là lý tưởng, là ham muốn tột bậc, suốt đời của Người.
Khẳng định tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam: Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn phản ánh tinh thần đoàn kết, đồng tâm, nhất trí, cố kết dân tộc để tạo nên sức mạnh cộng đồng và khát vọng vươn tới tự khẳng định mình với tư cách một dân tộc, một quốc gia có chủ quyền với lòng tự tôn, tự hào chính đáng... đã trở thành một giá trị tinh thần mang sức mạnh vật chất, có sức lôi cuốn, cổ vũ và nuôi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau, dù trong máu lửa, đạn bom, dù có phải hy sinh cả tính mạng vẫn không chịu đánh mất mình với tư cách một dân tộc độc lập, không chấp nhận “trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác”. Tinh thần, khí phách không những không hề bị mai một, mà càng được tôi luyện, hun đúc và nhân lên sức mạnh vốn có của nó một cách mạnh mẽ, nhờ đó, chúng ta đã “dựng nên nước Việt Nam độc lập”, “lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”.
Vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bóc trần bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, hành động “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của những kẻ nhân danh “lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” để áp bức, bóc lột các dân tộc khác, can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của nước khác. Đây là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi, khi mà giờ đây, các thế lực phản động quốc tế vẫn tiếp tục chiêu bài cũ và nhân danh quyền con người, ủng hộ dân chủ để thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, can thiệp thô bạo và tinh vi vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc đang trên con đường phát triển trong độc lập, tự chủ. Chính vì vậy mà giờ đây, đối với chúng ta, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và bình đẳng, tiến bộ và công bằng xã hội mà Tuyên ngôn độc lập đã trịnh trọng tuyên bố lại càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết.
Là nền tảng chính trị - pháp lý của nước Việt Nam mới. Trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế. Các quyền dân tộc cơ bản, quyền con người thiêng liêng, bất khả xâm phạm được tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập không chỉ là những giá trị bất hủ dành riêng cho dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam, mà còn là những giá trị bất hủ dành cho mọi dân tộc, cho cả nhân loại. Hướng đến các quyền đó là xu thế tất yếu của mọi dân tộc, của tất cả mọi người trong cộng đồng nhân loại ở thời đại ngày nay.
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới còn là một kiệt tác về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, nhà hiền triết của thời đại chúng ta. Không chỉ thế, Tuyên ngôn này còn thể hiện tình cảm yêu nước nồng nàn, lòng tự hào với truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam vốn đã in đậm dấu ấn ở Hồ Chí Minh. Ý chí sắt đá trong bản hùng văn này, độ nhạy cảm, tinh tế về chính trị, sự am hiểu sâu sắc về nền văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, tính nhân đạo và nhân văn trong lối sống, trong phong cách ứng xử, cộng với trí tuệ sắc sảo trong tư duy và tài hành văn, sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đến độ tinh tế, trong sáng và uyển chuyển của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại cho Tuyên ngôn độc lập quyền mãi trường tồn cùng thời gian không chỉ với tư cách một văn bản chính trị, một bản Tuyên ngôn lập quốc, mà còn với tư cách nỗi niềm sâu lắng của một dân tộc mới hồi sinh và thực sự đã hồi sinh, là tiếng nói từ đáy lòng của một anh hùng dân tộc suốt đời phấn đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân.


[1] Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 1.
[2] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 1.
[3] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 469.
[4] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 480.
[5] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 3.
[6] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 3.
[7] Hồ Chí Minh. Sđd., t. 4, tr. 4.