Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Phòng ngừa và ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ


"Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nửa" - Lời Hồ Chủ tịch.  Qua đó ta thấy, để giải phóng và phát huy được vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, thì một trong những vấn đề thời sự hiện nay đòi hỏi chúng ta cần phải kiên quyết làm đó là loại trừ nạn bạo hành ra khỏi gia đình, mà trực tiếp là phòng ngừa và ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ. Bởi, "Bạo lực chống lại phụ nữ là biểu hiện của các quan hệ không bình đẳng về mặt lịch sử giữa các nam giới và nữ giới, điều đó dẫn đến sự thống trị và phân biệt đối xử của nam giới đối với phụ nữ và ngăn cản sự tiến bộ về mọi mặt của phụ nữ" (Tuyên bố của Hội nghị phụ nữ thế giới tại Bắc Kinh - 1995). Bạo lực đối với phụ nữ diễn ra dưới nhiều hình thức: bạo lực về thể xác, tình dục, tâm lý và kinh tế. Các hình thức bạo lực này có mối liên hệ với nhau và tác động đến phụ nữ từ khi họ chưa được sinh ra đến khi về già. Khi xã hội thay đổi, các hình thức bạo lực cũng thay đổi và nhiều hình thức bạo lực mới nảy sinh.
Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam hiện nay đã và đang phát huy được vai trò to lớn của mình trong chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều phụ nữ đã trưởng thành, nhanh chóng vươn lên trong cuộc sống. Không chỉ giỏi việc nước, phụ nữ Việt Nam còn đảm việc nhà, chăm lo cho tổ ấm riêng của mình hoà thuận, hạnh phúc.
Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước: Hiện có tới 27,31% đại biểu nữ trong Quốc hội (cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới); tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ 25,69%...Đây là những con số sinh động, là bằng chứng chứng minh hiệu quả của những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam phát triển.
Có thể nói, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, hy sinh to lớn, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc; trong công cuộc xây dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, chị em tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Ở nước ta, tỷ lệ nữ tham gia lao động cao nhất trong khu vực châu Á, tới 83%, gần ngang bằng với nam giới (85%). Phụ nữ chiếm đến 48% lực lượng lao động toàn xã hội và là nguồn nhân lực dồi dào.
Phần đông phụ nữ hiện nay được tôn trọng và tạo điều kiện phát triển về mọi mặt, nhưng trên thực tế cho thấy vẫn còn nhiều phụ nữ ở nhiều địa phương vẫn còn là nạn nhân của bạo hành giới. Theo điều tra của Sở y tế Hà Nội trong 5 năm qua, có khoảng từ 55% - 95% phụ nữ bị hành hạ thể xác nhưng chưa bao giờ cầu viện tới một cơ quan chính thức hay người có thẩm quyền; 91,6% số phụ nữ đó bị chồng "thượng cẳng chân, hạ cẳng tay" - những phụ nữ ở độ tuổi 20 - 29 chiếm gần 50%.
Theo báo cáo vào tháng 4-2006 của Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em  thì trong số nạn nhân của bạo hành gia đình có tới 90% là phụ nữ, còn lại là trẻ em, người già. 30% số phụ nữ bị đánh đập, lạm dụng cưỡng bức bằng nhiều hình thức do người chồng gây ra; trong số này có 15% số người bị đánh, khoảng 80% bị mắng chửi, hơn 70% bị bỏ mặc, gần 10% bị chồng cấm tham gia hoạt động xã hội và gần 20% bị chồng cưỡng bức quan hệ tình dục đang là những con số gây nhức nhối với cộng đồng.
Viện Khoa học xét xử thuộc Tòa án Nhân dân tối cao cũng cho biết: Tại 42 tỉnh, thành phố, trong năm năm (2000 - 2005), có 10.608 vụ án hôn nhân và gia đình được xét xử thì trong số đó 42% số vụ có nguyên nhân từ bạo lực gia đình.
Theo báo cáo của Toà án Nhân dân tối cao, từ ngày 1/1/2000 đến 31/12/2005 các tòa án địa phương trong cả nước đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047 vụ việc về lĩnh vực hôn nhân gia đình. Trong đó có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình chiếm tới 53,1% tổng số vụ ly hôn. Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân gia đình chiếm tỷ lệ 60,3%. Theo số liệu điều tra mới đây, tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam khá phổ biến. Có 7,4% số người được hỏi cho biết từng chứng kiến bạo lực thể chất tại cộng đồng, 25% số gia đình từng xảy ra tình trạng bạo lực tinh thần; gần 30% số gia đình được hỏi cho biết có tình trạng bạo lực tình dục.
Hành vi bạo lực đối với phụ nữ gây ra những hậu quả hết sức tai hại, lâu dài cho xã hội, gia đình, bản thân người phụ nữ và cho cả những thế hệ con cháu: Phá vỡ sự bình yên, hoà thuận và hạnh phúc của cuộc sống gia đình, đặt người phụ nữ luôn luôn sợ hãi, bị giảm sút sức khoẻ, ốm đau, bệnh tật, suy nhược thần kinh; Bạo lực gia đình và hiếp dâm chiếm 5% trong số các gánh nặng về bệnh tật đối với phụ nữ ở độ tuổi 15 – 44. Bạo lực gây cho phụ nữ nguy cơ cao phải gánh chịu hậu quả về sự giảm sút thể lực và sức khỏe sinh sản. Phụ nữ bị lạm dụng cũng cho thấy sức khỏe tâm thần và chức năng xã hội kém hơn. Bạo lực trước và sau khi mang thai gây nên hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe của cả người mẹ và đứa con. Bạo lực gây nguy cơ cao đối với thai sản và những vấn đề liên quan đến thai sản như sảy thai, sinh thiếu tháng và trẻ sinh ra nhẹ cân. Những phụ nữ bị bạo lực có nguy cơ bị nhiễm HIV cao. Nỗi lo sợ về bạo lực cũng cản trở phụ nữ tiếp cận các thông tin về HIV/AIDS cũng như được điều trị và tư vấn.
Tình trạng suy sụp là một trong những hậu quả thường gặp đối với những phụ nữ bị bạo lực về tình dục và thân thể. Phụ nữ là đối tượng bị bạo lực thường lạm dụng rượu, ma túy và có hành vi tình dục không bình thường, muốn tự tử, bị căng thẳng (stress) sau chấn thương và rối loạn hệ thống thần kinh trung ương. Chứng kiến hành vi bạo lực gia đình thường xuyên có thể dẫn đến bạo lực suốt đời trọng mối quan hệ cá nhân; Bạo lực đối với phụ nữ có thể cản trở phụ nữ tham gia một cách đầy đủ vào phát triển kinh tế và hạn chế các cơ hội việc làm của phụ nữ. Gia đình tan vỡ, nhiều trẻ em bị cướp đi hoàn cảnh sinh sống và giáo dục bình thường, không có cha hoặc mẹ chăm sóc, bị gạt ra ngoài xã hội, đói rét và tội lỗi; Chi phí giải quyết bạo lực chống lại phụ nữ - cả trực tiếp và gián tiếp là rất lớn. Các chi phí này bao gồm chi phí trực tiếp cho các dịch vụ điều trị và hỗ trợ những phụ nữ và trẻ em bị lạm dụng và đưa kẻ phạm tội ra công lý. Các chi phí gián tiếp bao gồm chi phí mất việc làm, giảm năng suất lao động và chi phí đối với sự chịu đựng và nỗ đau của con người.
Việc nhìn nhận chính xác nguyên nhân của bạo hành giới, bạo lực đối với phụ nữ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động can thiệp. Vậy những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên:
Nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình là do tư tưởng bất bình đẳng giới "trọng nam, khinh nữ", những thành kiến về giới và những tập tục của xã hội cũ truyền lại. Người đàn ông thường mang nặng đầu óc gia trưởng, không hiểu biết pháp luật, tự cho rằng mình có quyền xúc phạm, ngược đãi, hành hạ vợ, mình bao giờ cũng đúng, mọi lỗi lầm đều do vợ gây ra...Tình trạng phụ nữ có trình độ học vấn chưa cao cho dù tỷ lệ tham gia vào các công tác lao động xã hội ở Việt Nam khá lớn. Ngoài ra, do chủ trương chung của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới, do phát triển kinh tế xã hội, phụ nữ Việt Nam ngày càng được học hành lên, có công ăn việc làm và vị trí của họ ngoài xã hội đã thay đổi. Nhưng sự thay đổi này thường khó được người đàn ông trong gia đình chấp thuận. Sự “mặc cảm trụ cột” của đàn ông Việt Nam với quan niệm “nhà chỉ có một cột trụ là người đàn ông, họ phải “hơn vợ một cái đầu” về mọi mặt". Vì thế, đa phần phụ nữ trong gia đình phải tế nhị và nhiều nữ trí thức phải sống trong tình trạng “giả ngu để gia đình êm ấm”. Chính vì vậy, mà tư tưởng không mong muốn phụ nữ học tập tiến bộ hơn hay tự thân nhiều phụ nữ không mong muốn học tập tiến bộ hơn vẫn tồn tại trong xã hội Việt Nam. Và điều này đã dẫn đến sự chênh lệch giữa chính trị và đời thường trong bình đẳng giới. Theo họ, trong chính trị chỉ cần thi hành chính sách. Còn trong đời thường, tư tưởng phong kiến gia trưởng đã ăn sâu từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Công tác tư tưởng rất khó mà ta lại chỉ tuyên truyền, kêu gọi chung chung. Phương pháp được gọi là “phân tích giới” trong các dự án phát triển kinh tế được thực hiện nhưng chưa nhạy bén đủ trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng. Do đó, những hố sâu trong ngăn cách giữa nâng cao trình độ học vấn của nam giới và nữ giới có lẽ cần phải được san lấp nhiều hơn nữa, từ cố gắng vượt qua các mặc cảm xã hội của người phụ nữ và từ sự chia sẻ và giúp đỡ thực sự của những người đàn ông ở Việt Nam.
Ở nhiều nơi, chính quyền địa phương chưa xử lý triệt để những vụ việc về bạo hành gia đình. Họ nghĩ rằng đó là chuyện riêng của mỗi nhà, không thuộc chức năng, nhiệm vụ giải quyết của chính quyền. Ngay chính bản thân người phụ nữ là nạn nhân cũng không lên tiếng đấu tranh và sẵn sàng bỏ qua cho "tội phạm". Cùng với đó là tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm ở nam giới thường là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc ngược đãi, bạo hành đối với phụ nữ. Ở những gia đình có khó khăn về kinh tế cũng hay xảy ra việc ngược đãi, bạo hành đối với phụ nữ. Những cặp vợ chồng luôn phải bươn chải để kiếm sống, đầu óc luôn căng thẳng thì nguy cơ xung đột trong gia đình đến nạn bạo hành càng cao.
Tình trạng dân trí thấp, học vấn thấp cũng là nguyên nhân phổ biến gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ. Tuy nhiên, vẫn có những gia đình vợ chồng là trí thức vẫn xảy ra tình trạng bất hoà thường xuyên, dẫn tới bạo hành, tan vỡ hôn nhân. Những xung đột gia đình do cưỡng ép tình dục, ghen tuông, ngoại tình, gia đình không có con trai, quan hệ mẹ chồng - nàng dâu, bố dượng, mẹ kế, con chung, con riêng... Ngoài ra, luật pháp mặc dù đã có nhiều văn bản quy định về chống bạo hành giới trong gia đình nhưng còn tản mạn ở nhiều luật, chưa có tính thống nhất và thiếu quy định cụ thể, chi tiết các chế tài xử lý.
Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi chúng ta cần phải hướng vào việc thực hiện một số điều cơ bản như sau:
 Một là, điều quan trọng nhất để thoát khỏi bạo hành gia đình là người phụ nữ phải biết tự bảo vệ mình. Họ phải tự tin về giá trị bản thân, không cho phép người khác làm tổn thương và hành hạ mình. Họ cũng phải ý thức được mình đang sống trong nạn bạo hành thì mới có thể lên tiếng, tìm sự trợ giúp và đấu tranh chống lại nó. Trước khi đợi một ai đó cứu giúp, phải biết tự giải thoát cho mình. Cùng với đó, người phụ nữ muốn có sự bình đẳng thật sự, bình đẳng, hạnh phúc thực sự thì phải có ý chí, quyết tâm tích cực học tập, rèn luyện để có đủ đức, tài tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và xây dựng ấm no, hạnh phúc, hoà thuận, không nên chỉ trông chờ vào người khác mà “bản thân chị em phụ nữ phải có chí khí tự cường tự lập, phải đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình”.
Hai là, tổ chức học tập cho cả nữ giới và nam giới để nâng cao hiểu biết về giới và pháp luật. Giúp người nữ giới hiểu thấu đáo quyền của mình và biết cách đấu tranh bảo vệ khi bị vi phạm; khắc phụ tâm lý cam chịu chấp nhận sự ngược đãi của chồng, chống thói tự ti, sĩ diện, xấu hổ...Ngoài ra, nam giới cần được nâng cao nhận thức về pháp luật, về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với gia đình, cách ứng xử có văn hoá, đạo lý và lối sống lành mạnh. Đấu tranh khắc phụ thói gia trưởng.
Ba là, tăng cường hoạt động của các tổ chức đoàn thể, xây dựng quy ước về nề nếp sống ở cộng đồng, trong đó cần chú trọng vào việc bảo vệ quyền bình đẳng và lợi ích của phụ nữ. Đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá". Tạo ra một dư luận xã hội lành mạnh, bênh vực cho những phụ nữ bất hạnh, đồng thời với việc tăng cương kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về phụ nữ, kịp thời xử lý nghiêm khắc những kẻ có hành vi bạo lực đối với phụ nữ.
Bốn là, đào tạo và nâng cao chất lượng công việc của phụ nữ Việt Nam. Các thống kê vào tháng 5/2006 cho thấy tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo nghề chỉ đạt 20,45%, bằng 30% so với nam giới. Trong sản xuất nông nghiệp, phụ nữ cũng ít được tham gia tập huấn kỹ thuật, vẫn còn tình trạng “nữ làm, nam học”. Do ít được đào tạo, trình độ tay nghề thấp, cơ hội việc làm hạn chế nên phụ nữ chiếm số đông trong các công việc lao động giản đơn, thiếu ổn định, thu nhập thấp, bấp bênh, đời sống khó khăn. Nhu cầu được hỗ trợ việc làm tăng thu nhập với lao động nữ ở nông thôn, nhất là nhóm phụ nữ nghèo là rất lớn nhưng việc đáp ứng, tiếc thay lại còn rất hạn chế. Điều này là bất hợp lý vì Chính phủ Việt Nam luôn khuyến khích phụ nữ nâng cao trình độ học vấn trong mọi chính sách và chủ trương.
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi trú ngụ của hạnh phúc, cái nôi để nuôi dưỡng trẻ thơ, nơi trú ẩn cuối cùng khi vấp ngã trên đường đời. Giá trị căn bản của gia đình là sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Nếu như không còn yếu tố này, sự tồn tại của gia đình là rất mong manh. Ðể gia đình là chỗ dựa cho các thành viên sống và làm việc hữu ích và là thành trì ngăn chặn sự xâm nhập của tệ nạn xã hội, trước hết chúng ta cần kiên quyết loại trừ nạn bạo hành ra khỏi gia đình, mà trực tiếp là phòng ngừa và ngăn chặn bạo lực đối với phụ nữ. 

Nâng cao chất lượng công tác tham gia xây dựng Đảng của Đoàn trong tình hình mới


Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, lực lượng xung kích trong thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đoàn là nơi tập hợp, rèn luyện, tuyển lựa đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng để Đảng xem xét, kết nạp. Chính vì thế, những năm qua các cấp bộ Đoàn đã tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục nâng cao nhận thức chính trị cho đoàn viên thanh niên. Quá trình xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức cũng là quá trình Đảng ta luôn chăm lo công tác phát triển đảng viên, nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển liên tục của Đảng. Bởi, "kết nạp đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác xây dựng đảng, nhằm tăng thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng”. 
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, phong trào thanh niên đã được đổi mới cả về nội dung lẫn phương thức hoạt động. Hình thức tập hợp thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội cũng ngày càng đa dạng, hiệu quả. Đội ngũ Đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Thông qua các cuộc vận động thanh niên tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới, trong thanh niên nông thôn; nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh hàng hoá trong thanh niên công nhân; hỗ trợ nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường; rèn luyện nâng cao chất lượng thanh niên nhập ngũ trong lực lượng vũ trang, các tổ chức Đoàn đã đoàn kết tập hợp được đông đảo ĐVTN tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước của tuổi trẻ. Có thể khẳng định trong thời kỳ mới, ở bất cứ lĩnh vực, địa bàn nào nhất là các lĩnh vực mới, khó, những địa bàn nóng bỏng thì vai trò của thanh niên, của ĐTNCS Hồ Chí Minh đều được phát huy, không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế - xã hội, mà còn có ý nghĩa giáo dục để hình thành một thế hệ thanh niên mới - thế hệ thanh niên cách mạng. Qua các phong trào, số lượng thanh niên gia nhập Đoàn, số lượng Đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng, số Đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước và thường chiếm tỷ lệ trên 50%.
Nếu nǎm 1996 số đoàn viên thanh niên được kết nạp đảng chiếm 48,9% tổng số đảng viên mới được kết nạp trong nǎm và chiếm 21,8% tổng số đoàn viên ưu tú được giới thiệu với Đảng thì nǎm 1997 và 1998, tỉ lệ tương ứng là 48,8% và 33,8%, 51,7% và 49,7%. Trong nhiệm kỳ 2002 – 2007, số đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng ngày càng tăng. Đoàn đã giới thiệu cho Đảng 904.839 đoàn viên ưu tú trong đó có 347.872 đồng chí được kết nạp Đảng, tăng 12,93% so với nhiệm kỳ trước; số đảng  viên mới là đoàn viên chiếm trên 60%  tổng số đảng viên được kết nạp hàng năm. Từ năm 1996 đến nay, từ đoàn đã giới thiệu 2.077.302 đoàn viên ưu tú cho đảng bồi dưỡng kết nạp. Trong đó hơn 1.000.000 đồng chí đã được kết nạp vào Đảng. Một điểm đáng chú ý là số đảng viên trẻ được kết nạp từ học sinh phổ thông trung học, sinh viên, trí thức trẻ có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây. Điều đó chứng tỏ chất lượng Đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng ngày càng cao, thanh niên ngày càng tha thiết với Đảng. Phấn đấu trở thành Đảng viên đang là mục đích, lý tưởng nguyện vọng của thế hệ trẻ hôm nay. Nếu ở thời điểm sau Liên xô và Đông Âu sụp đổ chúng ta hết sức lo lắng về thực trạng phấn đấu vào Đảng của ĐVTN thì vào thời điểm này chúng ta hoàn toàn có cơ sở đặt niềm tin vào lý tưởng và hoài bão của lớp trẻ.
Như vậy, một nửa số đảng viên mới kết nạp là thanh niên. Thực tế này cùng với sự phân tích ở trên cho thấy Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là nguồn quan trọng nhất đối với công tác phát triển đảng viên, số đoàn viên vào Đảng ngày càng tǎng, chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng ngày càng cao. Thanh niên ngày càng tha thiết với Đảng; phấn đấu trở thành đảng viên luôn là mục đích, lý tưởng, nguyện vọng của thế hệ trẻ hôm nay. Nếu vào thời điểm sau Liên Xô và CNXH ở Đông Âu đổ vỡ có những bǎn khoǎn trước việc phấn đấu vào Đảng của thanh niên thì hiện nay hoàn toàn có cơ sở đặt niềm tin vào lý tưởng và hoài bão của lớp trẻ.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định: hơn 10 năm qua, công tác kết nạp đảng viên đã được các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cấp bộ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh quan tâm, tích cực chỉ đạo và nâng cao thêm một bước trách nhiệm của mỗi đảng viên; các cấp bộ đoàn đã phát huy vai trò chủ động trong việc bồi dưỡng, giáo dục đoàn viên thanh niên phấn đấu vào Đảng. Đây là nguồn lực to lớn, có chất lượng làm cho tổ chức đảng thêm sức mạnh, vừa trẻ hoá đội ngũ của mình, vừa thu hẹp dần số đơn vị cơ sở, thôn, ấp, bản, buôn, làng, trường học, doanh nghiệp... chưa có tổ chức đảng hoặc chưa có đảng viên; tăng cường một bước năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển liên tục của Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phát triển đảng viên nói chung và trong thanh niên nói riêng còn bộc lộ những thiếu sót cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Trước hết là còn không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng chưa quan tâm đúng mức, chưa tạo điều kiện để tổ chức đoàn hoạt động và tạo môi trường thuận lợi cho đoàn viên thanh niên phấn đấu vào Đảng, thậm chí có nơi còn coi việc bồi dưỡng, giáo dục đoàn viên thanh niên phấn đấu vào Đảng là trách nhiệm của Đoàn Thanh niên. Về phía Đoàn Thanh niên cũng còn một bộ phận tổ chức đoàn chưa phát huy tính chủ động, tích cực; tổ chức tuyên truyền giáo dục đoàn viên thanh niên chưa tốt, nhất là khâu nâng cao giác ngộ về giai cấp, về Đảng cho đoàn viên thanh niên, vì vậy tỷ lệ đoàn viên ưu tú được Đảng xem xét kết nạp còn thấp (mới đạt 33%), chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Do vậy, đến nay trong cả nước còn một số đơn vị cơ sở chưa có tổ chức cơ sở đảng và tổ chức cơ sở đoàn; còn nhiều thôn, ấp, bản, làng, trường học ở vùng sâu, vùng cao, biên giới, vùng dân tộc và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài chưa có chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên, thậm chí có nơi chưa có đảng viên. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng có quần chúng nhưng trong năm không kết nạp được đảng viên chiếm tới 30%; ở nhiều cơ sở đảng tuổi bình quân của đảng viên còn cao, có đảng bộ xã bình quân tới 49-50 tuổi. Công tác tuyên truyền giáo dục về Đảng và tạo nguồn phát triển đảng viên chưa thường xuyên liên tục; nhận thức về Đảng của đoàn viên thanh niên chưa đầy đủ, sâu sắc; việc thực hiện một số nguyên tắc, thủ tục kết nạp đảng viên của một số tổ chức đảng còn sai sót v.v... Đó là những hạn chế, yếu kém không thể xem thường, đòi hỏi chúng ta phải tìm ra các giải pháp để kiên quyết khắc phục.
Nhiều chi đoàn, đoàn cơ sở trong nhiều nǎm không có đoàn viên được kết nạp đảng; nhiều cơ sở chỉ mới kết nạp đảng đến cán bộ chủ chốt hoặc uỷ viên chấp hành chi đoàn, đoàn cơ sở, chưa kết nạp tới đoàn viên. Đặc biệt, ở nhiều nơi còn tình trạng đoàn viên thanh niên phấn đấu tích cực nhiều nǎm nhưng vẫn chưa được đứng trong hàng ngũ của Đảng gây nên cảm giác cái đích trở thành đảng viên thật xa vời.
Công tác phát triển đảng trong thanh niên còn những hạn chế trên, trước hết là do sự nỗ lực phấn đấu vào Đảng chưa xuyên suốt trong quá trình hoạt động công tác của đông đảo thanh niên. Công tác xây dựng Đảng, phát triển đảng trong Đoàn thanh niên ở nhiều nơi chưa được quán triệt đầy đủ, không có kế hoạch phấn đấu cụ thể, thiếu sự phối hợp giữa Đoàn với các cấp uỷ đảng còn khá phổ biến. Công tác bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng, nhận thức về Đảng cho đoàn viên thanh niên của Đoàn thanh niên tiến hành chưa thường xuyên, chưa tác động sâu đến từng đoàn viên, chủ yếu thông qua các đợt giáo dục tập trung; nội dung giáo dục, hình thức tuyên truyền còn nghèo nàn, chưa thật phù hợp với từng đối tượng nên thanh niên tiếp thu còn hạn chế. Nhiều phong trào hoạt động của Đoàn chưa phát triển sâu rộng, chưa được tiến hành thường xuyên ở cơ sở để tạo môi trường cho đông đảo đoàn viên thanh niên phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Chất lượng sinh hoạt, hoạt động của chi đoàn - nơi gần gũi gắn bó nhất với đoàn viên thanh niên ở nhiều cơ sở còn thấp; ở những nơi tổ chức đoàn cơ sở yếu thường đi liền với tình trạng không có đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Đảng, nhất là ở nông thôn, doanh nghiệp tư nhân, vùng dân tộc, tôn giáo... Đối với trường học, nhiều nǎm trước đây đã không quan tâm phát triển đảng viên là học sinh - sinh viên. Trong quá trình bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, một số cấp bộ đoàn chỉ đạo chưa chặt chẽ, không thực hiện đúng quy trình nên chất lượng đoàn viên ưu tú chưa cao.
Sự quan tâm của một số cấp uỷ đảng tới công tác phát triển đảng mới thể hiện ở những quan điểm, chủ trương chung, còn thiếu kế hoạch, biện pháp cụ thể, đồng bộ để tổ chức thực hiện; chưa có sự chỉ đạo chặt chẽ và phối hợp hiệu quả với Đoàn thanh niên. Việc phân công đảng viên giúp đỡ quần chúng tích cực, nhất là ở nông thôn chưa được coi là biện pháp cần thiết trong công tác phát triển đảng, hiệu quả còn thấp. Tồn tại có tính phổ biến là nhận thức của một số đảng viên và cấp uỷ về tầm quan trọng của công tác phát triển đảng viên trẻ còn chưa đúng mức, còn có những hạn chế trong quan niệm về tuổi tác, thứ bậc, quá trình cống hiến... hoặc yêu cầu tiêu chuẩn cứng nhắc. Nǎng lực làm công tác vận động quần chúng thanh niên của nhiều cấp uỷ và đảng viên còn yếu; không ít cán bộ, đảng viên chưa thật gần gũi hoặc còn ngại tiếp xúc với thanh niên, không tích cực làm công tác phát triển đảng viên trẻ. Một số nơi cán bộ đảng viên còn có tác phong gia trưởng, đánh giá lớp trẻ thiếu khách quan, hạn chế tính tích cực phấn đấu vươn lên của thanh niên. Một bộ phận đảng viên không gương mẫu, thoái hoá, biến chất làm cho một bộ phận đoàn viên thanh niên giảm sút lòng tin đối với Đảng và ý chí phấn đấu vào Đảng. Nhiều cán bộ, đảng viên ít gần gũi, ngại tiếp xúc với thanh niên và đánh giá lớp trẻ thiếu khách quan. Một số đảng viên không gương mẫu, thoái hóa, biến chất, tham nhũng, làm cho một bộ phận đoàn viên thanh niên giảm sút ý chí, nhiệt tình phấn đấu vào Đảng. Bên cạnh đó, một số cơ sở đoàn thiếu chủ động tham mưu cho cấp ủy và chính quyền về tổ chức các phong trào nên không tạo được môi trường cho đoàn viên thanh niên phấn đấu, rèn luyện. Công tác bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng, nhận thức về Đảng chưa tác động sâu đến từng thanh niên. Nội dung giáo dục, hình thức vận động còn nghèo nàn, chưa phù hợp với từng khu vực, đối tượng. Một bộ phận thanh niên còn thờ ơ với các hoạt động chính trị - xã hội, thiếu hoài bão, ý chí phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên.
Trong quá trình bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng, một số cấp bộ đoàn chỉ đạo thiếu chặt chẽ, chất lượng giới thiệu chưa cao, nhiều đoàn viên ưu tú chuyển từ năm này qua năm khác vẫn không đủ điều kiện để kết nạp vào Đảng. Thực hiện quy trình giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét, bồi dưỡng, kết nạp chưa đúng; vai trò của ban chấp hành đoàn cơ sở - người bảo đảm thứ nhất chưa được đề cao. Không ít chi đoàn trong nhiều năm không có đoàn viên được kết nạp vào Đảng.
Phát huy những thành tựu của 20 năm đổi mới, đất nước ta tiếp tục phát triển theo đường lối đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH quyết tâm đến năm 2010 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và xây dựng Đảng ta thật sự vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong đó, việc nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên theo đúng tiêu chuẩn quy định trong thanh niên, coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, chú ý những người ưu tú trong công nhân, trí thức, lao động thuộc các thành phần kinh tế, đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, để thường xuyên bổ sung nguồn sinh lực mới cho Đảng có ý nghĩa rất quan trọng. Để làm được điều đó đòi hỏi công tác tham gia xây dựng Đảng của Đoàn cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, các cấp uỷ, tổ chức đảng và tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cần tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm công tác phát triển đảng viên và công tác phát triển đảng viên trẻ thời gian qua. Kịp thời bổ sung kế hoạch, biện pháp chỉ đạo để nâng cao chất lượng tạo nguồn phát triển đảng viên, trong đó tạo nguồn phát triển trong thanh niên có ý nghĩa quyết định đến chất lượng công tác phát triển đảng viên của Đảng. Cùng với đó cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, nhận thức về Đảng cho đoàn viên thanh niên. Thực hiện tốt việc: Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác; Xây dựng lớp thanh niên Việt Nam giầu yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh văn hoá của con người Việt Nam; Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ; Đồng hành với thanh niên trong hướng nghiệp, dạy nghề và giải quyết việc làm; Đồng hành với thanh niên trong việc nâng cao sức khoẻ thể chất và đời sống văn hoá tinh thần; Đoàn tham gia xây dựng đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân; tham mưu xây dựng chính sách cho thanh niên…
Hành động cách mạng chính là thước đo quá trình nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng của tuổi trẻ, đồng thời là môi trường thuận lợi nhất cho mỗi đoàn viên thanh niên rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên. Đồng thời các cấp uỷ, tổ chức đảng cần tin tưởng hơn, mạnh dạn giao nhiệm vụ, tạo điều kiện, cơ hội để tuổi trẻ được cống hiến và trưởng thành.
Hai là, thực hiện nghiêm việc phân loại đoàn viên, bồi dưỡng nâng cao chất lượng ĐVTN tạo nhân tố cho công tác phát triển Đảng viên.
Trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, người đoàn viên trước hết phải là người công dân tốt, người bạn tốt của thanh niên, là tấm gương tốt của thiếu nhi; tiêu biểu cho trí tuệ và bản lĩnh của thế hệ trẻ Việt Nam. Các cơ sở đoàn cần phải tập trung nâng cao chất lượng công tác và phát triển đoàn viên mới. Đổi mới sinh hoạt đoàn, "mềm hoá" các hoạt động, gắn hoạt động đoàn với cuộc sống đời thường của ĐVTN. Đổi mới phương pháp đánh giá phân loại đoàn viên. Đoàn viên ở lĩnh vực, địa bàn công tác phải được giao đảm đương các nhiệm vụ cụ thể và được đánh giá, xếp loại trên cơ sở mức độ hoàn thành các công việc được giao. Đồng thời nâng cao chất lượng đích thực của người đoàn viên ưu tú.
Làm chặt chẽ quy trình phân loại đoàn viên; có kế hoạch phấn đấu hằng nǎm để lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ đoàn viên ưu tú với chất lượng cao, có sự phân công nhiệm vụ và sự giúp đỡ rõ ràng. Xây dựng tiêu chuẩn đoàn viên ưu tú thích hợp với từng khu vực. Tiếp tục tổ chức tốt "Cuộc vận động đoàn viên thanh niên phấn đấu, rèn luyện để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam". Quan tâm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên trẻ trong các trường học, địa bàn nông thôn, trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng dân tộc, tôn giáo.
Trong khi đề nghị các cấp uỷ đảng tǎng cường quan tâm tới công tác phát triển đảng và hằng nǎm có chuyên đề bàn với Đoàn thanh niên cùng cấp, với quan điểm công tác đoàn là bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng và phát triển đảng viên trẻ là cung cấp đội ngũ trẻ cho Đảng, các cấp bộ đoàn cần chủ động tham mưu cho các cấp bộ đảng để hằng nǎm có kế hoạch, mục tiêu cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, chủ động tạo nguồn bồi dưỡng để kết nạp đoàn viên thanh niên vào Đảng, mở các đợt tuyên truyền, bồi dưỡng các kiến thức về Đảng cho đoàn viên thanh niên phù hợp với từng loại đối tượng để đoàn viên thanh niên hiểu, tin và tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vào Đảng. Trong khi mong muốn các cấp uỷ đảng quan tâm hơn nữa đến lợi ích của thanh niên, tin tưởng, cổ vũ lớp trẻ, bản thân mỗi cán bộ, đoàn viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện để thật sự có bản lĩnh vững vàng, niềm tin và động lực mạnh mẽ, trong sáng trong phấn đấu và trưởng thành.
Ba là, xây dựng, củng cố cơ sở đoàn, hội vững mạnh.
Đây luôn là yêu cầu bức xúc, đặc biệt là đối với chi đoàn nhằm tạo ra môi trường giáo dục trong một tổ chức có nền nếp, kỷ cương chặt chẽ. Chất lượng chi đoàn phản ánh chất lượng tổ chức đoàn. Xây dựng củng cố tổ chức đoàn vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức chính là sự cụ thể hoá quan điểm của Đảng. Vì công tác đoàn là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Phải xây dựng tổ chức đoàn và tổ chức của Hội Liên Hiệp Thanh Niên và Hội Sinh Viên Việt Nam vững mạnh, có khả năng tập hợp đông đảo thanh niên. Đưa thanh niên tình nguyện vào các phong trào cách mạng, để thử thách, rèn luyện, đồng thời tạo cơ hội cho thanh niên tự khẳng định mình. Chỉ những nơi có phong trào mạnh mới có nguồn đoàn viên ưu tú dồi dào giới thiệu cho đảng. Chuyển mạnh hoạt động của đoàn, của Hội tập trung về cơ sở, nhất là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa để tạo cơ hội cho thanh niên cống hiến và trưởng thành, đồng thời cũng là điều kiện để xây dựng tổ chức đoàn, hội vững mạnh.
Tạo môi trường tổ chức và môi trường thực tiễn tốt cho đoàn viên thanh niên phấn đấu. Tổ chức các phong trào thanh niên rộng lớn, vững chắc, thi đua thực hiện đường lối của Đảng, các chương trình kinh tế - xã hội - quốc phòng an ninh của Nhà nước, lôi cuốn đông đảo đoàn viên thanh niên vào các hoạt động thực tiễn để bồi dưỡng lý tưởng, tạo cơ hội cho thanh niên cống hiến và trưởng thành. Điều quan trọng là phải tạo dựng được các phong trào hành động cách mạng cụ thể ở từng cơ sở; lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp, mọi đối tượng thanh niên tham gia. Xây dựng Đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hiện tốt cuộc vận động "Xây dựng tổ chức cơ sở đoàn vững mạnh", làm cho mỗi tổ chức tế bào của Đoàn thực sự trở thành nơi rèn luyện, phấn đấu hàng ngày của đoàn viên.
Bốn là, đổi mới phương thức hoạt động của Đoàn, nâng cao nhận thức cho Đảng viên, ĐVTN về vai trò của tổ chức Đoàn trong công tác xây dựng Đảng.
Các cấp bộ Đoàn cần chủ động tham mưu cho các cấp uỷ Đảng xây dưng quy chế hoạt động, tạo điều kiện cho cấp uỷ lãnh đạo kiểm tra hoạt động của Đoàn đồng thời trực tiếp tham gia công tác xây dựng Đảng, góp phần xây dựng chính sách để đoàn kết, tập hợp thanh niên. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của những người cộng sản trẻ do Đảng Cộng Sản Việt Nam và Bác Hồ sáng lập và rèn luyện. Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Cấp uỷ lãnh đạo trực tiếp tổ chức đoàn cùng cấp về phương hướng nhiệm vụ, tư tưởng, tổ chức, cán bộ", có nghĩa là Đảng lãnh đạo toàn diện Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi các cấp uỷ đảng và đảng viên cần nhận thức sâu sắc: Xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước, là quá trình xây dựng và chuẩn bị đội dự bị tin cậy, bổ sung lực lượng cho Đảng. Trong chương trình công tác định kỳ của mình (tháng, quí, năm, nhiệm kỳ), cấp uỷ Đảng cần có chương trình công tác cụ thể lãnh đạo, chỉ đạo đoàn thanh niên, phân công cấp uỷ viên phụ trách CTTN; chỉ đạo kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện các chủ trương về CTTN, trong đó chú trọng kiểm tra công tác phát triển đảng viên, xây dựng qui chế, lề lối làm việc với cấp bộ đoàn và các ngành về CTTN…Đối với mỗi đảng viên cần thống nhất nhận thức công tác thanh vận là trách nhiệm của từng đảng viên, chứ không phải và không chỉ là nhiệm vụ riêng của cấp uỷ viên phụ trách CTTN, hay của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Do đó, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ của mình, mỗi đảng viên cần đi vào phong trào của tuổi trẻ, tuyên truyền đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước; sống mẫu mực là tấm gương cho thanh niên noi theo; đồng thời tham gia bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp.
Tổ chức Đoàn tham gia xây dựng Đảng những năm đầu thế kỷ XXI đứng trước rất nhiều thời cơ và thách thức. Chúng ta cần tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa CTTN của Đảng nói chung, công tác tham gia xây dựng Đảng của Đoàn nói riêng lên bước phát triển mới, góp phần tích cực xây dựng và bảo vệ Đảng.

Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng trong giáo dục, vận động thanh niên hiên nay


Tuyên truyền miệng (TTM) là một hình thức tuyên truyền được tiến hành thông qua sự giao tiếp bằng lời nói trực tiếp giữa người nói (nhà tuyên truyền) với người nghe (đối tượng được tuyên truyền) qua các thông tin, sự kiện có tính thời sự nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, cổ vũ hành động theo quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Đồng thời đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái thù địch giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho nhân dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm" và người làm công tác tuyên truyền miệng "Phải biết cách nói. Nói thì phải đơn giản, rõ ràng, thiết thực phải có đầu có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được", cùng với đó "Người tuyên truyền cần phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Chớ tưởng rằng: Ai phớt qua địa phương diễn thuyết một hai giờ đồng hồ mà có kết quả. Đến một địa phương nào cần phải đi thăm các cụ phụ não, các người phụ trách. Rồi đi thăm các nhà đồng bào để gây cảm tình và để hiểu biết tình hình địa phương. Đó là một việc làm cần cho tuyên truyền"
Đối với công tác tuyên truyền miệng thì nhiệm vụ chủ yếu tập trung vào việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhất là tuyên truyền sức sống, sự phát triển và vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp cách mạng hiện nay; Tuyên truyền, phổ biến đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; Truyền bá, giải thích về tình hình đất nước, nhiệm vụ của cách mạng, của lĩnh vực mình công tác trong đó coi trọng tuyên truyền về thành tựu kinh tế - xã hội, nhiệm vụ Quốc phòng - An ninh; đấu tranh phồng chống "Diễn biến hoà bình", "Bạo loạn lật đổ" của các thế lực thù địch; những vấn đề thời sự quốc tế, khu vực liên quan đến từng lĩnh vực. Cùng với đó, là tuyên truyền về truyền thống dân tộc, Đảng, bản chất giai cấp công nhân, bản sắc văn hoá dân tộc, đạo đức, lối sống, định hướng giá trị thẩm mỹ đúng đắn, phát triển nhân cách...và phê phán các quan điểm sai trái, phản động, thù địch để định hướng dư luận, tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng.
Trong quá trình tuyên truyền cần phải bảo đảm nguyên tắc: Tính đảng, tính khoa học; Tính chiến đấu; Tính quần chúng; Tính chân thực. Qua đó nhằm thực hiện chức năng của tuyên truyền miệng: Phổ biến thông tin; Bình luận - định hướng tư tưởng. Trên cơ sở ấy những năm qua, công tác tuyên truyền miệng của Đoàn thanh niên được triển khai với 3 loại hình: Báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV), đặc biệt là đội tuyên truyền thanh niên (TTTN) đã có chuyển biến và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin của thanh niên vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức sâu sắc hơn về truyền thống, bản sắc văn hoá của dân tộc, của Đảng đồng thời là lực lượng quan trọng để nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội trong thanh niên. 
Đoàn thanh niên các cấp đã phối hợp chặt chẽ triển khai xây dựng được 26.931 Đội tuyên truyền thanh niên với 618.997 đội viên thamgia phòng chống tệ nạn xã hội; trên 8.940 Câu lạc bộ Pháp luật và 31.369 đội tuyên truyền măng non, trên 10 Trung tâm tư vấn thanh niên và hơn 5000 Đội kỹ năng sống đang hoạt động tích cực trong công tác tuyên truyền giáo dục phòng chống tệ nạn xã hội trong thanh thiếu nhi và nhân dân. Trong 10 năm qua, Đoàn Thanh niên các cấp đã tiếnhành đào tạo được hàng trăm lớp tập huấn chohơn 100.000 lượt cán bộ Đoàn các cấp với phương châm: Trung ương đào tạo cho cấp tỉnh và mô hình điểm, cấp tỉnh đào tạo cho cấp huyện và cơ sở. 
Tuy nhiên, việc xây dựng đội ngũ TTM chưa được coi trọng, chất lượng còn nhiều hạn chế, hiệu quả hoạt động thấp; kỹ năng tuyên truyền thiếu hấp dẫn, chưa theo kịp tình hình thực tế; việc cung cấp thông tin, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ TTM của các cấp bộ Đoàn chưa kịp thời; sự chuyển biến trong công tác TTM của Đoàn không đồng đều ở các địa phương, việc nhân rộng các mô hình TTM chưa tốt. Nguyên nhân là do nhận thức của các cấp bộ Đoàn về công tác TTM chưa đầy đủ, chưa coi đây là công cụ trong công tác tuyên truyền, giáo dục của Đoàn; lúng túng trong việc xác định các loại hình TTM; việc chỉ đạo chưa kiên quyết, hướng dẫn thiếu thường xuyên.
Trong bối cảnh, đất nước đang tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH; tình hình thế giới diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch đang gia tăng các hoạt động chống phá nước ta, nhất là đối với thanh niên - một nguồn lực quan trọng của đất nước ta để từ đó nhằm phá hoại hệ giá trị, tư tưởng và đạo đức, lối sống...Trước thực tế đó, để góp phần nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng trong việc giáo dục và vận động thanh niên, để phát huy được vai trò, trách nhiệm của lực lượng này trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, cũng như trong việc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH trong thời gian tới các cấp bộ Đoàn cần hướng vào thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, cần quán triệt và nhận thức sâu sắc, đầy đủ về vai trò, vị trí của công tác TTM, trên cơ sở đó xác định các giải pháp cụ thể để xây dựng lực lượng BCV, TTV, đội TTTN các cấp đảm bảo về số lượng và chất lượng. Trong quá trình tổ chức hoạt động TTM cần đặc biệt chú ý những địa bàn và đối tượng thanh niên ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc, tôn giáo.
Hai là, trong tuyên truyền cần tập trung vào một số nội dung cơ bản: sức sống, sự vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay; sự cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, thời sự trong nước, khu vực và quốc tế; âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trong đó tập trung vào Chiến lược "Diễn biến hoà bình", "Bạo loạn lật đổ" dưới nhiều hình thức biến tướng khác nhau; Nghị quyết, chủ trương của Đoàn, Hội, Đội các cấp; các sự kiện lịch sử quan trọng, các đợt sinh hoạt chính trị...Tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, xây dựng lối sống, nếp sống, phòng chống tệ nạn xã hội.
Ba là, thường xuyên xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ làm công tác tuyên truyền miệng, cụ thể:
Đối với đội ngũ BCV: tiến hành rà soát, đánh giá và tập trung kiện toàn đội ngũ BCV các cấp; đảm bảo từ cấp huyện trở lên có đội ngũ BCV của Đoàn. Chú trọng lựa chọn, xây dựng, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả đội ngũ BCV phù hợp với từng cấp dưới sự quản lý trực tiếp của Ban thường vụ Đoàn. Phấn đấu hầu hết cán bộ Đoàn làm công tác phong trào cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện là BCV của Đoàn.
Đối với đội ngũ TTV: tiếp tục phát triển lực lượng tuyên truyền viên mang tính hệ thống, phát huy vai trò của người đoàn viên ở cơ sở. Tập trung bồi dưỡng để mỗi cán bộ, đoàn viên là một TTV của Đoàn. Phát triển lực lượng TTV, tập trung xây dựng đội ngũ TTV, bồi dưỡng và phân công nhiệm vụ tại những vùng trọng điểm, ở khu vực đặc thù. Chú trọng phát triển các đội hình TTV trong sinh viên, thanh niên tình nguyện, tạo ra đội ngũ TTV theo hướng rộng rãi, có hiệu quả.
Đối với đội TTTN: tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các đội TTTN hiện có, nhân rộng các mô hình hoạt động có hiệu quả; đa dạng hoá loại hình đội TTTN, mở rộng và phát huy hiệu quả hoạt động của đội TTTN trong xã hội, cộng đồng. Đội TTTN được thành lập và duy trì hoạt động có hiệu quả từ cấp tỉnh tới cơ sở. Phấn đấu hầu hết các tỉnh, thành phố, quận, huyện và Đoàn cơ sở khối thanh niên công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, trường học xây dựng được đội TTTN và duy trì hoạt động tốt; tăng tỉ lệ số xã, phường có đội TTTN.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, phối hợp trong việc xây dựng, phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tuyên truyền miệng: Các cấp bộ Đoàn chủ động tham mưu, đề xuất với cấp uỷ Đảng, Ban Tuyên giáo các cấp để tập huấn kỹ năng, trang bị tài liệu, phương tiện hoạt động cho đội ngũ tuyên truyền miệng của Đoàn; từng bước đề xuất cơ chế, chính sách, chế độ cho BCV, TTV và đội TTTN. Duy trì chế độ giao ban, hội nghị BCV, các sinh hoạt chuyên đề nhằm kịp thời cung cấp các chủ trương, thông tin cho đội ngũ TTM, tăng cường các hoạt động thăm quan, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác tuyên truyền miệng.

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN TRONG THỜI KỲ MỚI


Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Ðảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; là lực lượng nòng cốt trong phong trào thanh niên; là trường học xã hội chủ nghĩa; đại diện quyền lợi của thanh niên; phụ trách Ðội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Chính vì thế, công tác cán bộ đoàn là một phần quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Cán bộ đoàn là nguồn của cán bộ đảng.
Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn ngày càng được coi trọng, nhất là việc kiện toàn bộ máy tổ chức, cải tiến lề lối, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan lãnh đạo của Đoàn; triển khai, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn về Công tác cán bộ Đoàn trong thời kỳ mới... nhiều địa phương, đơn vị đã chủ động xây dựng quy chế làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, quy chế tuyển chọn cán bộ, trong đó quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình tuyển chọn, tổ chức thi tuyển, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ trưởng thành từ thực tiễn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được đổi mới cả về nội dung, hình thức, sát với yêu cầu thực tế, vừa coi trọng nâng cao nhận thức, vừa tăng cường kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác Đoàn theo hướng thiết thực sát với các đối tượng như tập huấn theo chuyên đề, theo khối, theo lĩnh vực với các hình thức sáng tạo, hấp dẫn, hiệu quả. Do đó, đã đạt được nhiều kết quả, góp phần tích cực nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội ở các cấp, ngày càng đáp ứng yêu cầu, thực tiễn công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước. Nội dung, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ không ngừng được đổi mới theo hướng đa dạng về nội dung và hình thức, gắn lý thuyết với thực hành. Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện TTN Việt Nam và các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành đoàn ngày càng được củng cố và tăng cường.
Các cấp uỷ Đảng, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, đoàn kết, tập hợp thanh, thiếu nhi; tham gia đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ cho các cơ quan đảng, chính quyền các cấp và cho các ngành, lĩnh vực hoạt động xã hội; Công tác đánh giá cán bộ đoàn chuyên trách ở một số tỉnh, thành đoàn đã được thực hiện theo quy chế, quy trình, bảo đảm công bằng, chính xác. Tổ chức đoàn đã có sự phối, kết hợp chặt chẽ với cơ quan tổ chức của cấp uỷ đảng trong quản lý, sử dụng cán bộ cũng như phân công, phân cấp quản lý cán bộ đoàn. Công tác luân chuyển cán bộ ở nhiều nơi được chú trọng…Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được nhiều địa phương chú ý, giúp cho đội ngũ cán bộ đoàn yên tâm công tác hơn. ở nhiều địa phương, tổ chức đoàn đã tham mưu cho chính quyền sử dụng nguồn ngân sách của địa phương phụ cấp cho đội ngũ bí thư chi đoàn.
Các khâu công tác từ việc tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí, chăm lo chính sách, bảo đảm vật chất, động viên tinh thần thực hiện ngày càng có nền nếp, đúng quy trình hơn. Việc đánh giá, bố trí cán bộ chủ yếu dựa vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ và hiệu quả công việc. Một số trường đoàn hoặc trung tâm bồi dưỡng cán bộ đoàn cấp tỉnh, thành tiếp tục được duy trì, củng cố và phát triển, góp phần quan trọng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội ở địa phương, cơ sở. Trong 5 năm qua (2002 – 2007) các cấp bộ Đoàn cả nước đã tổ chức tập huấn cho 1.152.301 lượt cán bộ Đoàn, Hội, Đội. Đội ngũ cán bộ đoàn có số lượng rất lớn. Tính đến tháng 12-2002, toàn quốc có 4.360.516 đoàn viên, 205.141 chi đoàn, 23.260 đoàn cơ sở. Năm 2003 trên cả nước, tỷ lệ cán bộ đoàn cấp tỉnh có trình độ chuyên môn trên đại học là 2,76%, đại học: 73,98%, trung cấp: 23,26%; lý luận chính trị: cử nhân và cao cấp là 16,8%, trung cấp: 39,8%, sơ cấp 29,8%. ở cấp huyện, cán bộ đoàn có bằng trên đại học về chuyên môn là 1%, đại học: 41,8%, trung cấp 30,2% (tương ứng ở cấp xã là 0; 29,3%; 27,5%); cử nhân và lý luận chính trị cao cấp là 3,63%, trung cấp: 31,8%, sơ cấp: 36,4% (tương ứng ở cấp xã là 1,66%; 30,6%; 30,8%). Hiện nay cả nước có 28.164 Đoàn cơ sở thuộc các cơ quan đơn vị ở địa bàn dân cư, doanh nghiệp, cơ quan hành chính sự nghiệp, trường học và lực lượng vũ trang. Trong nhiệm kỳ khoá VIII, kết nạp mới 4.504.561 đoàn viên, vượt 12,6% chỉ tiêu, đưa số đoàn viên cả nước hiện nay lên 6,1 triệu, tăng 12,84% so với nhiệm kỳ trước; số đoàn viên xuất sắc và khá tăng từ 85,3% năm 2003 lên gần 90% năm 2006. Tỷ lệ cơ sở đoàn vững mạnh và khá tăng đáng kể, từ 52,3% số chi đoàn vững mạnh và 57,6% số đoàn cơ sở vững mạnh năm 2003 lên 59,4% số chi đoàn vững mạnh và 64,9% số đoàn cơ sở vững mạnh năm 2006. Đội ngũ cán bộ đoàn các cấp từng bước được trẻ hoá; trình độ lý luận, nghiệp vụ, kỹ năng công tác được nâng lên một bước, đã tập huấn cho 1.152.301 lượt cán bộ đoàn, hội, đội, tăng 118% so với nhiệm kỳ trước... Đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp từng bước được trẻ hóa; trình độ lý luận, nghiệp vụ, kỹ năng công tác được nâng lên một bước. Các cấp bộ Đoàn đã tập huấn cho 1.152.301 lượt cán bộ Đoàn, Hội, Đội, tăng 118% so với nhiệm kỳ trước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong những năm qua thì hiện nay công tác cán bộ và chất lượng cán bộ Đàon vẫn đang còn sự bất cập, đó là: về trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ đoàn trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ đoàn ở nhiều cấp bộ đoàn chưa khoa học. Công tác quy hoạch dự nguồn cán bộ ở không ít nơi bị động, dẫn đến việc bố trí cán bộ chưa thật "chín". Công tác đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi mới. Nội dung chương trình và phương pháp đào tạo lạc hậu. Đào tạo chưa gắn chặt với sử dụng. Hệ thống học viện, trường, trung tâm đào tạo cán bộ đoàn chưa hợp lý, chất lượng đào tạo thấp. Chính sách đối với cán bộ đoàn chưa tạo động lực thu hút cán bộ giỏi làm công tác đoàn, công tác thanh, thiếu nhi, công tác quy hoạch cán bộ ở không ít nơi còn lúng túng, bị động. Công tác đào tạo bồi dưỡng chưa gắn chặt với quy hoạch cán bộ. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa thống nhất, thiếu kiến thức thực tiễn, giáo trình và cơ sở vật chất không đồng bộ. Phương thức đào tạo chưa đa dạng. Không ít địa phương, đơn vị chưa thực sự chú trọng đến công tác đánh giá cán bộ hoặc đánh giá thiếu căn cứ khoa học, nặng về cảm tính; chưa có quy trình và tiêu chí cụ thể đánh giá cán bộ đoàn. Vấn đề bố trí, sử dụng chưa gắn với quy hoạch, đào tạo. Việc luân chuyển điều động cán bộ gặp rất nhiều khó khăn do chính sách lương bất hợp lý. Chính sách cho cán bộ đoàn mới chỉ chú ý cấp lãnh đạo chủ chốt đoàn, các đối tượng khác chưa được quan tâm thoả đáng, chưa có sự thống nhất.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội, nhất là cấp tỉnh và cấp huyện còn gặp nhiều khó khăn; hệ thống đào tạo, bồi dưỡng của Đoàn và hệ thống giáo trình còn chưa đồng bộ; một bộ phận đội ngũ giảng viên các trường Đoàn, trung tâm chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi trong tình hình mới... Hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa cao, chưa gắn với tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu ngày càng cao của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, Do đó, công tác "Cán bộ là then chốt". Nghị quyết số 02 của Hội nghị BCH Trung ương Đoàn lần thứ 3 (khoá VIII) cũng đã khẳng định: "Việc xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, có đủ năng lực, trình độ, có bản lĩnh chính trị vững vàng là yêu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài của tổ chức Đoàn các cấp". Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tầm quan trọng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Để làm được việc đó cần hướng tới thực hiện tốt quan điểm, mục tiêu:
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội các cấp đáp ứng yêu cầu công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước. Đổi mới công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phải đáp ứng với yêu cầu luân chuyển cán bộ Đoàn, Hội, Đội rất nhanh ở các cấp; gắn với thực tiễn công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, đảm bảo nâng cao hiệu quả của công tác Đoàn, Hội, Đội ở cơ sở; thực hiện tốt các chủ trương công tác của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ của các cấp bộ Đoàn. Đổi mới công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ phải thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, quy định chung của ngành giáo dục, đào tạo; đồng thời phải tính đến những yếu tố đặc thù của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn.
Nâng cao nhận thức của tổ chức Đoàn, Hội, Đội các cấp về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn; phấn đấu hầu kết cán bộ Đoàn, Hội, Đội các cấp đều được đào tạo, bồi dưỡng về phương pháp luận công tác thanh thiếu nhi, kỹ năng công tác thanh thiếu nhi, lý luận và nghiệp vụ xây dựng Đoàn, Hội; lý luận và phương pháp công tác Đội. Nâng cao một bước về chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của hệ thống Đoàn, Hội, Đội các cấp đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên và cộng tác viên; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các cấp; xây dựng bộ giáo trình cho cho phù hợp với trình độ của đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội...
Từ thực tiễn và mục tiêu của công tác cán bộ Đoàn như vậy, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ đoàn để đội ngũ cán bộ này vừa đáp ứng yêu cầu của phong trào thanh niên, thiếu nhi, vừa đảm bảo có khả năng, điều kiện bổ sung cho đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị sau này.
Một là, thống nhất nhận thức và quan điểm chỉ đạo về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội. 
Các cấp bộ Đoàn cần nhận thức rõ vai trò, vị trí của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn trong thời kỳ mới có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước. Là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ do đó công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thiết thực, thường xuyên đổi mới về nội dung, phương thức trên cơ sở xác định mục tiêu, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng cán bộ trong từng giai đoạn nhất định.
Điều chỉnh cơ cấu đào tạo bồi dưỡng cho phù hợp với nhu cầu công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi cả nước trong giai đoạn hiện nay, chú trọng trang bị kiến thức toàn diện về lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn. Tăng cường tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền về công tác cán bộ Đoàn nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn nói riêng trong thời kỳ mới trên cơ sở xác định công tác cán bộ Đoàn là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng; xây dựng Đoàn tức là xây dựng Đảng trước một bước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Học viện TTN Việt Nam đưa vào hệ thống đào tạo bậc đại học quốc gia; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cấp tỉnh, thành của Đoàn, Đoàn trực thuộc.
Tập trung nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện và đội ngũ giảng viên, báo cáo viên của các cơ sở đào tạo thuộc tỉnh, thành Đoàn; quan tâm lựa chọn, xây dựng, phát triển đội ngũ đội ngũ công tác viên cho các trung tâm, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuộc hệ thống do Đoàn thanh niên quản lý. Tăng cường đầu tư kinh phí nguồn lực cho Học viện thanh thiếu nhi Việt Nam và các cơ sở, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành Đoàn; tập trung xây dựng hệ thống chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở phù hợp với từng đối tượng cán bộ Đoàn, Hội, Đội (các hệ, các loại hình đào tạo, bồi dưỡng). Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ sở đào tạo trong hệ thống Đoàn thanh niên, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Phải đổi mới nội dung, phương thức đào tạo ở các trường đoàn theo hướng sát với yêu cầu thực tiễn của phong trào thanh niên. Kiến thức cần cập nhật cho học viên không chỉ là những kiến thức từ đời sống phong trào thanh niên đang diễn ra sôi động và đa dạng, còn cần trang bị cho họ những kiến thức cơ bản, kỹ năng hòa nhập cộng đồng xã hội đủ khả năng làm tốt công tác vận động thanh niên trong thời kỳ mới.
Hai là, chủ động phối hợp với các ngành liên quan đa dạng hoá các loại hình trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Chủ động tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền tạo điều kiện về cơ chế, chính sách trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đặc biệt, tham mưu ban hành quy chế cán bộ đoàn tạo cơ sở, điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội các cấp. Tăng cường phối hợp với các ngành, hệ thống trung tâm chính trị các cấp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chuyên trách, cán bộ chuyên trách của Đoàn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc tế đặc biệt đối với các nước trong khu vực, châu á, Thái Bình Dương trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Ba là, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn.
Cán bộ đoàn cần phải được tuyển chọn kỹ từ những người hoạt động tích cực trong các phong trào đoàn. Nguồn để tuyển chọn chủ yếu là học sinh, sinh viên, bộ đội xuất ngũ, cán bộ đoàn cơ sở. Cán bộ đoàn không chuyên trách chính là nguồn chủ yếu để tuyển chọn cán bộ đoàn chuyên trách, cán bộ đoàn cấp dưới là nguồn tuyển chọn cho cán bộ đoàn cấp trên. Để việc tuyển chọn được khách quan, chính xác, đúng tiêu chuẩn đòi hỏi: Cần có quy chế tuyển chọn thống nhất. Các cấp bộ đoàn cần chủ động trong tuyển chọn cán bộ cho mình đồng thời phối hợp chặt chẽ với cấp ủy đảng.
Các cấp bộ đoàn chủ động trong phát hiện cán bộ để đưa vào diện quy hoạch. Số cán bộ này ngoài trình độ, năng lực cần xem xét kỹ lịch sử chính trị, phải có triển vọng phát triển. Cán bộ làm công tác đoàn chuyên nghiệp phải được đào tạo cơ bản, nội dung chương trình cần được đổi mới thích ứng với đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Cán bộ đi học được lựa chọn kỹ trong số đã được tôi luyện từ phong trào. Đây là nguồn cán bộ cho Đảng.
Bốn là, đánh giá, sử dụng, luân chuyên cán bộ và có chính sách bảo đảm vật chất, động viên tinh thần.
Trên cơ sở các tiêu chuẩn chung đã được quy định trong chiến lược cán bộ của đảng, Đoàn cần xây dựng quy trình, tiêu chí đánh giá cán bộ thống nhất, cụ thể. Trong đánh giá cán bộ phải bảo đảm đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc bố trí sử dụng tính đến sự kế thừa giữa các độ tuổi. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của công tác cán bộ đoàn trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trên cơ sở đó đề ra biện pháp phù hợp với điều kiện, đặc điểm của địa phương mình.
Năm là, cần phân cấp công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ đoàn, đội. Trong đó, chú trọng hai cấp cơ bản là: Hệ đào tạo chính quy tập trung hoặc không tập trung cho đối tượng đã tốt nghiệp đại học để làm cán bộ đoàn ở các cơ quan chuyên trách. Đối tượng này do Học viện Thanh niên Việt Nam đảm nhận. Hệ bồi dưỡng, huấn luyện dành cho cán bộ bán chuyên ở xã, phường và các khu vực khác. Đối tượng này do các trường đoàn tỉnh, thành phố đảm nhận. Ngoài hai cấp đào tạo, huấn luyện cơ bản trên cần tổ chức huấn luyện tại cấp quận, huyện và tương đương. ở cấp này, lãnh đạo các quận, huyện, thị đoàn phối hợp với các Trung tâm bồi dưỡng chính trị tổ chức, nhưng trường đoàn các tỉnh, thành có trách nhiệm chỉ đạo nội dung, tham gia giảng dạy và cung ứng tài liệu. Cách làm này đã được Trường đoàn Hải Phòng và một số tỉnh thực hiện rất có hiệu quả từ nhiều năm qua.
 Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, nơi rèn luyện, đào tạo đội ngũ đoàn viên ưu tú để cung cấp cho sự nghiệp cách mạng nước ta những con người mới vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Chính vì thế, Đoàn Thanh niên cần thực hiện tốt việc rèn luyện nâng cao chất lượng cán bộ đoàn đáp ứng yêu cầu của phong trào thanh niên trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.

ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN TRONG THỜI KỲ CNH, HĐH VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Trong Di chúc, Bác Hồ đã căn dặn Đảng ta phải coi việc: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Bởi, thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, phát huy vai trò to lớn của thanh niên tới đâu, điều đó tuỳ thuộc vào công tác giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng thanh niên, đặc biệt là phải định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên trước những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo UNESCO, thì giá trị đạo đức được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản như sau: Nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do và tinh thần nhân đạo, khoan dung, mà cụ thể là lý tưởng nhân đạo, chính sách nhân đạo, lối sống nhân đạo, vẻ đẹp tâm hồn, hòa bình - hòa hợp, bình đẳng - công lý, nhân quyền, dân quyền; là lòng vị tha, thương người trong ứng xử giữa con người với con người, yêu thiên nhiên, thận trọng, sáng tạo, công bằng, tự giác, tự trọng…
Do đó, giá trị đạo đức là hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội, là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi con người.
Lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách quan của các giá trị đạo đức, do đó chỉ khi nào những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng hộ thì mới có giá trị. Như vậy, giá trị đạo đức được xác định bởi mức độ phù hợp của chúng đối với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Bên cạnh đó, giá trị đạo đức được hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội.
Bởi vậy, định hướng giá trị đạo đức thanh niên bao hàm sự chỉ đạo, lãnh đạo, giáo dục, hướng dẫn về đạo đức cho mỗi thanh niên và sự nhận thức, lựa chọn, cân nhắc và hành động theo những giá trị đạo đức nhất định.
Hiện nay, trước sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, của hội nhập quốc tế, đã đem lại nhiều thuận lợi mới để phát triển đất nước. Tuy nhiên, nước ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thử thách tác động không nhỏ đến niềm tin, lý tưởng, giá trị đạo đức của thanh niên như: hệ thống CNXH trên thế giới lâm vào thoái trào, CNTB có bước điều chỉnh, có những mặt phát triển và chiếm ưu thế… tình trạng thấp kém của nền kinh tế, khoảng cách về trình độ công nghệ giữa nước ta và nhiều nước trên thế giới còn rất xa, sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng các thủ đoạn, biện pháp trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, sự tác động của các tệ nạn xã hội nhất là quan liêu, tham ô, tham nhũng và sự thoái hoá, biến chất về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lối sống vụ lợi, thực dụng…những điều đó là đi ngược lại với bản chất nhân đạo và những giá trị nhân văn của một xã hội có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời...trong khi đó, việc định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên ở các nhà trường, cơ quan, địa phương  và gia đình chưa được quan tâm đúng mức; việc kết hợp giáo dục, quản lý thanh niên giữa gia đình, nhà trường và xã hội chưa được chặt chẽ, thậm chí có không ít những gia đình chú trọng vào phát triển kinh tế, không chăm lo quản lý, giáo dục con… Điều đó đưa đến tình trạng một bộ phận thanh niên sống không có hoài bão, ước mơ lớn, thiếu ý chí phấn đấu, thờ ơ với các hoạt động chính trị – xã hội; số ít thanh niên bị sự tác động phản tuyên truyền, kích động của các thế lực thù địch; có lối sống hưởng thụ, lười lao động, ngại khó khăn, sùng ngoại, coi thường giá trị văn hoá dân tộc. Tình trạng vi phạm pháp luật, mắc các tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn ra phức tạp và có xu hướng gia tăng với khoảng 70% số tội phạm hình sự, gần 80% số người nghiện ma tuý, mại dâm là thanh niên, trong đó số lượng vị thành niên ngày càng gia tăng…
Trong điều kiện mới, thanh niên nước ta sẽ có biến đổi sâu sắc về mọi mặt, đặc biệt là cơ cấu xã hội, nghề nghiệp, địa vị kinh tế, vị trí xã hội của thanh niên tăng lên. Điều này đưa đến sự phân hoá mạnh trong quá trình phát triển của lớp trẻ hiện nay, trong đó nổi bật là mức thu nhập, biến đổi về định hướng giá trị lối sống và nhân cách, hệ thống các nhu cầu của thanh niên sẽ tiếp tục biến đổi và phát triển đa dạng, phong phú hơn, đó là những nhu cầu về: việc làm, thu nhập, học tập, nâng cao trình độ văn hoá, nghề nghiệp, nhu cầu về hoạt động văn hoá tinh thần, thể thao, giải trí; nhu cầu về giao lưu, tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình. Trong đó, đáng chú ý là nhu cầu về đời sống tâm linh có xu hướng gia tăng…
Do vậy, việc định hướng giá trị nói chung, định hướng giá trị đạo đức nói riêng cho thanh niên để trên cơ sở đó có sự nhận thức sâu sắc và định hướng đúng đắn việc xây dựng một hệ chuẩn đạo đức mới cho thanh niên là điều hết sức cần thiết và cấp bách để giúp thanh niên sống có hoài bão, ước mơ, đủ sức vượt qua những tác động tiêu cực của đời sống xã hội, để thực sự là lực lượng chính trị – xã hội, xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để thực hiện được việc đó theo tôi thì cần phải hướng vào thực hiện các nội dung cơ bản sau đây:
Một là. Giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thanh niên Việt Nam phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao và phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Giá trị nhân cách này không thể tách rời thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là gốc rễ và cốt lõi của đạo lý làm người mang đậm bản sắc dân tộc. Do đó, đây là định hướng phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách phù hợp với sự phát triển của đất nước và yêu cầu của thời đại, là tiền đề cho sự định hướng phát triển các giá trị đạo đức của thanh niên, đặc biệt là việc phải kết hợp chặt chẽ giữa lời nói với việc làm, phải biến lý luận trở thành hiện thực cuộc sống, phải mang lại ý nghĩa đích thực và giá trị nhân văn đối với mỗi người, cộng đồng xã hội…tạo động lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là. Nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần yêu n­ước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế trong sáng. Tự lực, tự cường, nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, xây dựng phẩm chất tốt đẹp và đạo đức cách mạng cho thanh niên. 
Điều này đòi hỏi phải nâng cao nhận thức về Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng cho thanh niên. Thanh niên phải được phổ biến, tuyên truyền về tình hình, nhiệm vụ cách mạng của đất nước; thanh niên là học sinh, sinh viên trong nhà trường thực hiện tốt chương trình học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên ngoài nhà trường được học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo chương trình phổ cập phù hợp với từng đối tượng thanh niên. Nâng cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu. Rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy truyền thống đoàn kết, nâng cao tinh thần tập thể và ý thức cộng đồng cho thanh niên; thu hút thanh niên tham gia vào các hình thức sinh hoạt giáo dục đạo đức, truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc. Nâng cao tinh thần tự hào, ý thức tự tôn dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho nền văn hoá của dân tộc ngày càng phong phú, đa dạng và trở thành động lực thúc đẩy đất nước phát triển.
Nâng cao nhận thức về pháp luật, ý thức trách nhiệm công dân, nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước và dân tộc trong giai đoạn mới. Ngoài ra, cần nâng cao năng lực giao lưu, hợp tác quốc tế của thanh niên như: khả năng giao tiếp, tính chủ động, tự tin và vị thế của thanh niên Việt Nam trong hoạt động giao lưu quốc tế thanh niên, tăng cường tình hữu nghị và đoàn kết với thanh niên các nước. Sự hiểu biết của thanh niên về tình hình thế giới và khu vực; hình thành bản lĩnh chính trị vững vàng cho thanh niên trong quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Xây dựng nhận thức đúng đắn của thanh niên về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế theo tinh thần độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, góp phần bảo vệ hoà bình, tiến bộ xã hội và tạo các điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Ba là. Nâng cao sức khoẻ, đời sống tinh thần, xây dựng nếp sống văn hoá và đẩy lùi tệ nạn xã hội, tình trạng phạm pháp trong thanh niên.
Sức khoẻ có vai trò quan trọng trong các hoạt động của thanh niên, “có sức khoẻ là có tất cả”. Do đó, chúng ta cần phải cải thiện tình trạng sức khoẻ của thanh niên, nâng cao các chỉ số thể lực cơ bản của nam, nữ thanh niên. Phấn đấu đến năm 2010, so với hiện nay, chiều cao trung bình của thanh niên tăng 3 cm, cân nặng trung bình tăng 3 - 4 kg.
Để làm được điều đó thì việc nâng cao số lượng và tỷ lệ thanh niên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, rèn luyện thân thể là một giải pháp quan trọng. Phấn đấu đến năm 2010, tỷ lệ thanh niên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao, rèn luyện thân thể đạt 25 - 30%. Phấn đấu tỷ lệ đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo quy định trong thanh niên học sinh đạt 80%, trong sinh viên đạt 90 - 95%. Đến năm 2010, đảm bảo 90% số trường học các cấp có sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao tối thiểu cho học sinh và thanh niên.
Giảm tỷ lệ bệnh tật trong thanh niên, trước hết là các bệnh do điều kiện môi trường sống và làm việc, dinh dưỡng, các bệnh truyền nhiễm, bệnh nghề nghiệp. 100% thanh niên khu vực đô thị, 80% thanh niên khu vực nông thôn có hiểu biết cần thiết về HIV/AIDS và có thái độ chủ động, tích cực đối với công tác phòng, chống AIDS. Ngăn chặn và từng bước đẩy lùi sự lây nhiễm HIV/AIDS trong thanh niên.
Tuy nhiên, để thanh niên phát triển thì không chỉ quan tâm đến vấn đề thể lực mà còn phải quan tâm đến việc nâng cao trình độ thưởng thức, sáng tạo của thanh niên trong các hoạt động văn hoá tinh thần, đặc biệt là đối với các loại hình văn hoá dân tộc. Bảo đảm bảo quyền hưởng thụ đời sống văn hoá tinh thần của thanh niên, ưu tiên các vùng khó khăn, vùng xa xôi, miền núi, hải đảo. Đến năm 2010, đảm bảo 100% các huyện, thị có nhà văn hoá thanh thiếu nhi, 100% cơ sở xã, phường vùng đồng bằng, 80% cơ sở xã vùng cao, xa xôi có tụ điểm sinh hoạt, hoạt động thanh niên. Hình thành định hướng giá trị đúng đắn, xây dựng nếp sống văn hoá cho thanh niên. Bài trừ các hành vi mê tín trong thanh niên.
Cần phải đẩy lùi tệ nạn xã hội trong thanh niên, đặc biệt là tệ nạn ma túy, mại dâm, cờ bạc. Giảm tỷ lệ thanh niên phạm pháp, giảm thiểu tình trạng vi phạm trật tự công cộng, an toàn giao thông, đến năm 2010 phấn đấu tổ chức cai nghiên tập trung cho 90% thanh niên mắc nghiện.
Bốn là. Làm tốt công tác giáo dục và tự giáo dục về thái độ và trách nhiệm của thanh niên đối với lao động, xây dựng phong cách làm việc văn minh, khoa học.       
Tiến hành giáo dục và tự giáo dục để hình thành nhận thức đúng đắn của thanh niên về nghề nghiệp, việc làm, nâng cao tính tích cực, chủ động của thanh niên trong việc nâng cao trình độ nghề nghiệp và giải quyết việc làm. 100% thanh niên học sinh trung học phổ thông và 60% thanh niên khu vực đô thị đang tìm kiếm việc làm được tư vấn nghề nghiệp.
Cơ bản xoá đói, giảm nghèo trong thanh niên và gia đình trẻ khu vực nông thôn, miền núi, vùng xa và cải thiện đời sống thanh niên khu vực đô thị, khu công nghiệp tập trung. Bởi vì, lao động vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của thanh niên. Thanh niên cần lao động để lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, góp phần xây dựng đất nước; chủ động tiếp cận thông tin thị trường lao động; lực chọn việc làm và nơi làm việc phù hợp với khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội; rèn luyện tác phong công nghiệp, năng lực quản lý, kinh doanh, tuân thủ kỷ luật lao động; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; nâng cao trình độ nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ; xung kích thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Do đó, động cơ, trách nhiệm và hiệu quả của lao động là phẩm chất đạo đức, là một giá trị trong chuẩn mực giá trị đạo đức của thanh niên. Cho nên, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính sáng tạo, trình độ học vấn và tay nghề cao để tạo ra năng suất, hiệu quả trong các hình thức lao động là một biện pháp quan trọng trong phát triển đạo đức cho thanh niên hiện nay.
Năm là. Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá - tinh thần cho thanh niên, quan tâm đến các đối tượng thanh niên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và các vùng đặc biệt khó khăn. Chủ động, tích cực đấu tranh để gạt bỏ, để loại trừ tận gốc những hiện tượng tiêu cực trong gia đình, nhà trường và xã hội nhằm làm trong sạch, lành mạnh hoá đời sống đạo đức xã hội, tạo tiền đề cho thanh niên phát triển.
Năm nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, mỗi nội dung chỉ phát huy được vai trò của mình trên cơ sở các nội dung khác. Bởi vậy, vấn đề định hướng giá trị trong phát triển đạo đức của thanh niên thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế là một yêu cầu cấp thiết, phức tạp, nên các nội dung đề cập trên chỉ mới là những vấn đề bước đầu của sự nghiên cứu về việc định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay.     

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN SINH VIÊN HIỆN NAY


Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức là một trong những nhiệm vụ chiến lược được Đảng ta xác định. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, do đó giáo dục và đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu. Trong giáo dục đào tạo phải đặc biệt quan tâm chăm lo đến thanh niên sinh viên. Bởi, sinh viên là một bộ phận ưu tú trong tầng lớp thành niên. Được học tập và rèn luyện để trở thành những trí thức tương lai, họ có khả năng tiếp thu những thành tựu mới của khoa học - công nghệ tiên tiến, có thể đưa nước ta "đi tắt, đón đầu" để hội nhập với khu vực và quốc tế. Trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục nói chung thì việc giáo dục đạo đức cho sinh viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi đó là cơ sở nền tảng hình thành con người mới "vừa hồng, vừa chuyên". Chính vì thế mà giáo dục và đào tạo phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có vai trò của nhà trường nói chung và các trường đại học, cao đẳng nói riêng là hết sức quan trọng.
Theo số liệu thống kê, quy mô sinh viên tăng bình quân 6,4%/năm, từ 893.754 người (năm 1999 - 2000) lên 1.131.030 người/năm (năm học 2003 - 2004). Sinh viên thuộc tất cả các hệ đào tạo đều tăng, tuy nhiên hệ dài hạn tập trung có quy mô, tốc độ gia tăng nhanh hơn so với hệ tại chức và các hệ khác. Sự gia tăng số lượng sinh viên nhanh chóng đã làm cho thanh niên sinh viên ngày càng có tỷ lệ tăng dần trong cơ cấu thanh niên (chiếm 4% lực lượng thanh niên) và cơ cấu dân số cả nước (chiếm 0,96% dân số) và chỉ số sinh viên tính trên vạn dân tăng lên rõ rệt: từ 26 sinh viên/10.000 dân năm 1994 lên 118 sinh viên/ 10.000 năm 2001 - 2002 (trong thời gian tới Đảng ta chủ trương phấn đấu giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/10.000 dân; sinh viên tăng 8,4%/năm).
Năm
1999-2000
2000-2001
2001-2002
2002-2003
2003-2004
2004-2005
2005-2006
Số trường
153
178
191
202
214
230
255
Số lượng sinh viên
893754
918228
974119
1020667
1131030
1319754
1363167
Số giảng viên
30309
32205
35938
38608
39985
47646
48579
Tiến sĩ
4471
4563
4970
5476
5361
6223
6037
Phó Giáo sư
1240
1140
1171
1315
1412
1842
442
Giáo sư
342
314
306
339
325
446
2114
Về cơ cấu ngành nghề đào tạo, các số liệu thống kê sinh viên học tập trong các khối trường cho thấy: Khối Khoa học cơ bản chiếm tỷ lệ 53%, tiếp theo làkhối kinh tế - luật: 16%; khối kỹ thuật công nghệ: 12%; khối sư phạm: 10%; khối nông - lâm - ngư nghiệp: 5%; khối Y - Dược - Thể dục thể thao: 3%; khối văn hoá - nghệ thuật: 1%.
Về cơ cấu xã hội: theo phân tích trong tổng số 486.974 sinh viên của 168 trường đại học và cao đẳng có: 109% sinh viên vùng cao, sâu; 11,64% sinh viên miền núi; 39,93% sinh viên nông thôn; 9,07% sinh viên là con thương binh, liệt sỹ, gia đình có công; 3,23% sinh viên thuộc dân tộc thiểu số; 1,92% sinh viên thuộc diện xoá đói giảm nghèo...
Về chất lượng giáo dục đào tạo cho sinh viên: Do có chú ý đến tiêu chuẩn hoá đội ngũ giảng viên, hoàn thiện chương trình đào tạo, bổ sung trang thiết bị dạy học nên sinh viên được cập nhất với một số lĩnh vực các kiến thức thuộc ngành được đào tạo, từng bước làm chủ công nghệ thông tin và ngoại ngữ phục vụ cho học tập và làm việc sau này. Chất lượng giáo dục - đào tạo kiến thức kỹ năng của một bộ phận sinh viên ở các trường được nâng cao nhất là các lớp chất lượng cao, lớp cử nhân tài năng.
Hiện nay, đất nước đang tiếp tục đổi mới, giao lưu, hội nhập với thế giới và đứng trước nhiều cơ hội, thời cơ lớn để phát triển và đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để tuổi trẻ Việt Nam trong đó có sinh viên phát huy tài năng, sức lực để trưởng thành và cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Cùng với những thời cơ để phát triển, thế hệ trẻ ngày nay cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức: tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, những nguy cơ chung của đất nước mà Đảng đã vạch ra cũng chính là những thách thức đối với cả thế hệ trẻ. Cùng với đó, đất nước một mặt vẫn còn nghèo, chưa đủ khả năng, điều kiện để đáp ứng đầy đủ các nhu cầu phát triển của sinh viên; mặt khác vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ trong các chính sách giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, quy hoạch, đầu tư và quản lý các hoạt động văn hoá, thể thao phục vụ sinh viên. Không ít sinh viên gặp khó khăn trong điều kiện học tập, việc làm, nhà ở, lập nghiệp và nâng cao thu nhập. Mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những tiêu cực trong xã hội, các thông tin và sản phẩm văn hoá độc hại, hoạt động chống phá, lôi kéo, chia rẽ của các thế lực thù địch sẽ tiếp tục tác động phức tạp đến nhận thức của sinh viên, thách thức bản lĩnh chính trị, hệ thống giá trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống của sinh viên...
Những thời cơ và thách thức nêu trên đã tác động lớn đến sinh viên nước ta, chúng ta cần có một cách nhìn toàn diện, khách quan, khoa học tình hình sinh viên cũng như đạo đức và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho họ nhằm có giải pháp, định hướng cho sinh viên hiện nay và trong những năm kế tiếp để tổ chức, giáo dục và đào tạo sinh viên đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, sinh viên phần đông đã thể hiện tính năng động, nhạy bén, thích ứng với cơ chế mới, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước, có ý thức tự lực tự cường, chủ động chuẩn bị hành trang cho mình vào đời, lập thân, lập nghiệp. Ngày càng xuất hiện nhiều tập thể tiên tiến, sinh viên tiêu biểu trong học tập và rèn luyện để trở thành những người lao động giỏi trong tương lai. Sinh viên ngày càng tin tưởng và hăng hái tham gia vào công cuộc đổi mới của đất nước. Niềm tin và sự nhiệt tình đó không chỉ dừng lại ở trong suy nghĩ, tình cảm mà bằng cả những hành động cụ thể. Nhiều sinh viên rất mong muốn được đứng trong các tổ chức chính trị để được cống hiến và trưởng thành. Số sinh viên tự động tham gia các hoạt động của đoàn, hội ngày càng nhiều, số sinh viên có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng cao, số đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng hàng năm cũng tăng nhanh. Trình độ nhận thức của sinh viên về lý tưởng cách mạng, về đường lối của Đảng ngày càng sâu sắc.
Trong trường học, phong trào "học tập, rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước", "Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" được triển khai có kết quả với nội dung xây dựng thái độ, động cơ học tập đúng đắn, cổ vũ sinh viên khắc phục khó khăn, vươn lên trong học tập, nghiên cứu khoa học. Trong thời đại thông tin và mở rộng giao lưu văn hoá, sinh viên đã nhận thức rõ hơn giá trị của học vấn và việc học tập đã trở thành nhu cầu cấp bách. Cùng với sự phát triển của sự nghiệp giáo dục và sự quan tâm đầu tư của gia đình, xã hội, đa số sinh viên phấn đấu vượt khó khăn để đạt kết quả học tập tốt. Nhiều sinh viên đã học thêm các môn học, các ngành học như tin học, ngoại ngữ, quản trị kinh doanh... để bổ sung trình độ, làm hành trang chuẩn bị bước vào đời. Nhìn chung trình độ học vấn, nói rộng hơn là trình độ dân trí của sinh viên ngày càng được nâng cao. Từng bước đáp ứng thiết thực các nhu cầu chính đáng của sinh viên, góp phần đoàn kết, giáo dục sinh viên tích cực, chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn quốc phòng, an ninh của tổ quốc. Nhận thức sâu sắc giá trị của lao động, coi trọng tính hiệu quả và phẩm cách trong lao động, có ý chí vươn lên tự thân lập nghiệp. Họ vừa hoàn thành công tác xã hội nhưng cũng vừa lao vào học tập, tiếp thu kiến thức từ thực tế để không ngừng bổ sung tri thức cho bản thân.
Nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp vừa là nhu cầu của sinh viên để lập thân, lập nghiệp vừa là yêu cầu của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều kiện mới của xã hội đã kích thích và tạo điều kiện cho thanh niên sinh viên đáp ứng nhu cầu tự khẳng định, tự thể hiện mình. Sinh viên cũng tích cực, chủ động hơn trong việc chuẩn bị khả năng làm việc, tự tìm kiếm và tạo việc làm. Cùng với quá trình mở cửa, giao lưu hội nhập quốc tế, đời sống tinh thần, văn hoá, lối sống của sinh viên được nâng lên rõ rệt. Với một môi trường văn hoá phong phú, đa dạng, đời sống tinh thần của họ được cải thiện, sinh viên được tiếp cận thông tin đa chiều, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng nắm bắt tri thức nhân loại. Họ biết sống theo giá trị tiến bộ của thời đại, đồng thời cũng giữ gìn được truyền thống tốt đẹp và đạo lý của dân tộc mình. Triển khai thực hiện trong toàn Đoàn chỉ thị số 06/CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức Cuộc vận động "Học tập và làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh" gắn với việc tiếp tục thực hiện sinh hoạt chính trị "Tuổi trẻ Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại". Đây là điều kiện tốt cho sinh viên của trường được giáo dục và rèn luyện theo những giá trị đạo đức chuẩn mực của Hồ Chí Minh cũng như lý tưởng cao đẹp của Người.
Trong quan hệ xã hội và cuộc sống hàng ngày, phần đông sinh viên giữ được truyền thống đạo lý, hướng về cái đẹp, cái thiện, tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện của xã hội như: Sinh viên tích cực tham gia các hoạt động ngày thứ 7 tình nguyện, chủ nhật xanh, tổ chức giữ gìn trật tự an toàn giao thông, tiếp sức mùa thi, tình nguyện hè do Đoàn trường trực tiếp tổ chức tại các địa phương có hoàn cảnh khó khăn; phong trào hiến máu nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa; phong trào ánh sáng văn hoá, giúp nhau vượt khó; phong trào loại trừ tệ nạn xã hội, ... Trong giao tiếp ứng xử hàng ngày, sinh viên ngày càng tỏ ra mạnh dạn, tự tin và chủ động, phong cách ứng xử ngày càng có văn hoá và lịch sự...
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tốt là cơ bản, quá trình đào tạo bồi dưỡng, phát triển đạo đức cách mạng của sinh viên còn những hạn chế nhất định:
Một bộ phận sinh viên không có hoài bão, thiếu ý chí chiến đấu, ngại tham gia các hoạt động chính trị - xã hội. Một số không quan tâm đến việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như các môn khoa học Mác - Lênin…Từ đó dẫn đến việc thờ ơ với lý tưởng, chưa chọn đúng chỗ đứng của mình, chưa xác định nhiệm vụ cao cả của người thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một số khác bị sự tác động của văn hoá phản động, kích động của các thế lực thù địch. Điều này ảnh hưởng tới sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ trong tương lai. Cùng với đó một số sinh viên có lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, lười lao động, ngại khó khăn. Không ít sinh viên có biểu hiện chây lười lao động, không chịu học tập, thiếu ý chí cầu tiến, có lối sống thực dụng, hy vọng làm giàu với các động cơ không chính đáng. Đặc biệt, có một bộ phận thanh niên dễ bị kích động, sống buông thả, tham gia vào các trò chơi nguy hiểm như đua xe trái phép, gây gổ đánh nhau... dẫn đến số lượng sinh viên vi phạm pháp luật, mắc các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Một bộ phận sinh viên hiện nay đang xa rời lịch sử, văn hoá dân tộc, không hiểu và không quan tâm đến lịch sử, văn hoá dân tộc. Tư tưởng sùng ngoại, tiếp thu không chọn lọc văn hoá nước ngoài, thích sống theo văn hoá ngoại lai... không chỉ biểu hiện qua cách ăn mặc mà cả trong lời nói và hành vi thiếu văn minh...
Tình trạng mất trật tự, làm việc riêng trong giờ học, giờ thực tập và tự học; Đến muộn giờ học, giờ thực tập; nghỉ học không phép hoặc quá phép; Vô lễ với thầy, cô giáo và CBCC nhà trường; Học hộ hoặc nhờ người khác học hộ; Thi, kiểm tra hộ, nhờ thi, kiểm tra hộ; làm hộ, nhờ làm, sao chép tiểu luận, đồ án, khoá luận tốt nghiệp; bỏ thi không có lý do chính đáng; Không đóng học phí đúng quy định và quá thời hạn được trường cho phép hoãn; Làm hư hỏng tài sản trong KTX và các tài sản khác của trường; Uống rượu, bia trong giờ học; Hút thuốc lá trong giờ học, phòng họp, phòng thí nghiệm và nơi cấm hút thuốc theo quy định; Tàng trữ, lưu hành, truy cập, sử dụng sản phẩm văn hoá đồi trụy, tham gia các hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động tôn giáo trái phép; Buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, lôi kéo người khác sử dụng ma tuý; Sử dụng ma tuý; Chứa chấp, môi giới hoạt động mại dâm; Lấy cắp tài sản, chứa chấp, tiêu thụ tài sản do lấy cắp mà có; Chứa chấp buôn bán vũ khí, chất nổ, chất dễ cháy và các hàng cấm theo quy định của Nhà nước; Đưa phần tử xấu vào trong trường, KTX gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự trong nhà trường; Đánh nhau gây thương tích, tổ chức hoặc tham gia tổ chức đánh nhau; Vi phạm các quy định về an toàn giao thông...
Trước thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ sinh viên hiện nay, việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên làm cho họ có đủ đức - tài đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước là một trong những vấn đề cấp bách, đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khỏi bị chệch hướng. Do đó, giáo dục đạo đức cho sinh viên cần tập trung vào các nội dung: Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và nảo vệ tổ quốc; Giáo dục lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, biết trân trọng các giá trị đạo đức của dân tộc, xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, tư cách, tác phong đúng đắn của người công dân. Giáo dục các chuẩn mực đạo đức trong các quan hệ xã hội, phê phán những hành vi không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Giáo dục hành vi đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, tác phong công nghiệp. Để biến các nội dung của đạo đức thành hiện thực trong công tác giáo dục và đào tạo sinh viên cần hướng tới thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo, thành niềm tin chân lý trong thế hệ trẻ. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho sinh viên là để cho họ có thể ứng phó với mọi biến đổi phức tạp của cuộc sống, làm chủ tương lai, làm chủ sự nghiệp của mình. Làm cho mỗi sinh viên luôn có ý thức tự lực, tự cường, chủ động trong học tập, nghiên cứu khoa học, học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay, không chấp nhận sự nghèo đói, không làm giàu bất chính, chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Hai là, tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện các quy định về công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Lựa chọn, lồng ghép, tích hợp các nội dung giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống thích hợp vào hoạt động giảng dạy, học tập của chương trình chính khoá. Tổ chức các hoạt động nhân dịp ngày lễ, kỷ niệm các sự kiện trọng đại của đất nước, địa phương và nhà trường, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao, các hoạt động, phong trào tình nguyện trong sinh viên.
Ba là, tổ chức Tuần sinh hoạt công dân - sinh viên đầu khoá, cuối khoá, đầu năm học. Tổ chức các hoạt động giáo dục theo chuyên đề, bao gồm: Giáo dục pháp luật; Giáo dục phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm; Giáo dục môi trường, kỹ năng sống; Giáo dục truyền thống, đạo đức nghề nghiệp; Giáo dục phòng, chống tham nhũng; Giáo dục an toàn giao thông; Giáo dục truyền thống nghề nghiệp; Tư vấn tâm lý, nghề nghiệp và các vấn đề xã hội; Hội nhập với thế giới. Tổ chức các hoạt động đối thoại với sinh viên, thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ học tập, rèn luyện cho sinh viên nhằm phát triển tài năng, giúp đỡ những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, chống tiêu cực, gian lận trong học tập, rèn luyện.
Bốn là, xây dựng các quy định về thi đua, khen thưởng và tổ chức tổng kết, tự kiểm tra, tự đánh giá trong phạm vi nhà trường. Khảo sát, đánh giá kết quả rèn luyện, thực trạng về phẩm chất đạo đức, lối sống của sinh viên theo định kỳ. Đề xuất những nội dung, biện pháp và cách thức mới, khả thi, hiệu quả trong quá trình thực hiện. Nghiên cứu, dự báo những biến động, ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đối với phẩm chất đạo đức, lối sống của sinh viên. Trao đổi, học tập kinh nghiệm thực hiện công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên giữa các trường trong nước và quốc tế. Trang bị cho các đơn vị, cá nhân có liên quan trong trường những kiến thức, kỹ năng cần thiết của công tác giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho sinh viên.